910 108
Nghiên Cứu » Phật Pháp Ứng Dụng
Chia sẻ với bạn bè qua:
Đông Triều. 08:33:00 03-06-2014 (GMT+7).
Kích cỡ chữ: Giảm Tăng

Một số suy tư về đường hướng Hoằng pháp (tiếp theo)

Một số suy tư về đường hướng Hoằng pháp (tiếp theo)
2. Khả năng vận dụng:
            Tính bản địa hóa hay địa phương hóa Phật giáo là một yếu tố quan trọng đối với sứ mệnh phát triển Phật giáo. Trên bình diện tuyệt đối, đạo Phật không hề mang khoát bất cứ nhãn hiệu nào, ngoại trừ ý nghĩa là con đường thoát khổ, hay là “một nghệ thuật sống”. Tuy nhiên, trên bình diện thế gian, đạo Phật luôn có tên gọi riêng cho chính mình mỗi khi truyền bá vào một quốc gia hay xứ sở; ví dụ Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Thái Lan…Nói khác đi, trong quá trình hội nhập và Phát triển, giáo lý Phật giáo và văn hóa bản địa luôn có một sự giao thoa tương tác để từ đó tạo ra một bản sắc mới cho chính Phật giáo và nền văn hóa ấy. Đây chính là tài sản vô giá đối với từng dân tộc, từng quốc gia, xứ sở. Chắc chắn, người Việt Nam sẽ chỉ bảo vệ và giữ gìn những tài sản nào mang thuộc tính Việt Nam, đó là Lịch sử Việt Nam, Văn hóa Việt Nam, Phật giáo Việt Nam, mà không thể là của Trung Hoa, Nhật Bản, v.v…
            Như thế, người hoằng pháp cần phải có những kiến thức cơ bản về lịch sử và đặc tính văn hóa của từng vùng miền cụ thể, để từ đó mới có chương trình hoằng pháp thích hợp với căn cơ, trình độ và đặc tính văn hóa từng địa phương. Chính đặc tính bản địa này tạo nên một sức sống lâu dài cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc, đạo pháp. Trong Phật giáo, kiến thức và khả năng vận dụng này được gọi là tinh thần phương tiện thiện xảo. Tuy nhiên, trong quá trình “phương tiện” để phục vụ mục tiêu hoằng pháp, “thiện xảo” để đưa đạo vào đời, để bảo tồn tính văn hóa dân tộc trong đạo, hoằng pháp viên không thể bỏ qua ý nghĩa “tùy duyên nhi bất biến” của Phật giáo; nghĩa là không thể đánh mất tinh thần trí tuệ giải thoát của đạo Phật cho dù có đạt được bất cứ kết quả gì trong hiện tại. Bởi lẽ, nếu đạo Phật mà không có tính chất trí tuệ-giải thoát thì dễ bị đồng hóa thành một loại tín ngưỡng hay tôn giáo thuần túy với chức năng chính là cúng kiến và cầu nguyện. Văn hóa dân tộc mà không được phát huy và bảo tồn tinh thần trong sáng của nó thì không sớm thì muộn cũng sẽ bị tha hóa.
            Nhưng trong các hình thức sinh hoạt của Phật giáo hiện nay, đặc biệt là trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, dường như đã có quá nhiều hủ tục, tập quán mang tính đồng bóng, thần quyền, mê tín, dị đoan đang chiếm ưu thế. Khuynh hướng cầu nguyện và cúng kiến đã trở thành sinh hoạt chính của Tăng Ni và Phật tử. Nghi lễ, xin xăm, bói toán, coi ngày tốt xấu…trở nên nghề thịnh hành trong giới nhà chùa. Những lời dạy mang tinh thần giác ngộ, giải thoát, tự giác, giác tha đã được thực dụng hóa bằng thuật ngữ “phương tiện”, v.v…
            Nguyên nhân là vì vai trò và nhiệm vụ hoằng pháp của nhiều tỉnh thành Phật giáo trong cả nước dường như rất mờ nhạt và chưa thực sự có ảnh hưởng lớn trong đời sống của quần chúng tín đồ. Ngành hoằng pháp chưa định hình được phương hướng hoằng pháp rõ ràng cho từng đối tượng, từng lứa tuổi. Theo cái nhìn của người viết, hoạt động của Ban Hoằng pháp tại các tỉnh thành Phật giáo hiện nay có vẻ mang tính phong trào, thời vụ trong  các ngày lễ lớn, hoặc các khóa tu mùa hè cho thanh thiếu niên…, thậm chí một số tỉnh thành không hề có chương trình thuyết giảng vào thời gian nêu trên. Nội dung hoằng pháp chưa có tính chiến lược lâu dài, đặc biệt là chưa có chương trình giảng dạy và hướng dẫn cụ thể dành cho đối tượng thanh thiếu niên. Ngay cả sinh hoạt của Gia đình Phật tử, vai trò của các Ban ngành thuộc Giáo hội cũng chỉ mang tính trách nhiệm tượng trưng, hình thức thiếu sự quan tâm, cưu mang, nuôi dưỡng tầng lớp Phật tử quan trọng này.
            Đã đến lúc các vị lãnh đạo của Phật giáo Việt Nam, cụ thể là Ban Giáo dục Tăng Ni, Ban Hoằng pháp, Ban Văn hóa, Ban Hướng dẫn Phật tử cần xác định và phát huy những nét đặc thù nào của giáo lý Phật giáo và văn hóa dân tộc, những thức ăn tinh thần gì mà giới tín đồ Phật giáo Việt Nam với sự khác biệt về tuổi tác, trình độ, sở thích, môi trường sống khác nhau (giữa thành thị và thôn quê) đang cần trong bối cảnh xã hội ngày nay để từ đó trang bị cho giảng sư đoàn của Giáo hội đầy đủ những nhu yếu vừa nêu. Có như thế vai trò hoằng pháp mới hoàn thành được trọng trách đầy thiêng liêng và ý nghĩa của mình.
 
3. Hành trang của người hoằng pháp:
            Một chuyển biến quan trọng trong hệ thống hoằng pháp qua thời gian gần đây là sự đóng góp của các Tăng Ni trẻ vào các tổ chức cũng như sinh hoạt của Phật giáo. Sự tham gia của một số Tăng Ni trẻ này đã tạo nên một sinh khí mới trong việc đưa đạo vào đời qua các công tác từ thiện, hoằng pháp ở các vùng sâu vùng xa; rõ nét nhất lá các tổ chức trại hè dành cho giới thanh thiếu niên. Rõ ràng hiệu quả của các hoạt động này đã có một số tác động nhất định đối với xã hội; bởi lẽ nhu cầu được sinh hoạt trong các môi trường như thế mỗi ngày mỗi lớn và đã có nhiều phản ứng tốt đẹp về sinh hoạt này. Tuy nhiên, việc làm này dường như vẫn mang tính tự phát, lẻ tẻ của những cá nhân mà chưa có một hệ thống tổ chức thật sự. Vã lại, trong sứ mệnh hoằng pháp, ngoài những kiến thức thu hoạch được tại nhà trường và xã hội cũng như bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ, kinh nghiệm tâm linh mới là yếu tố thiết yếu đối với người hành đạo. Có thể nói rằng đây là phẩm chất quan trọng nhất, là hành trang đòi hỏi cần và đủ  đối với một tu sĩ Phật giáo nói chung và người hoằng pháp nói riêng. Tất nhiên, nội lực này không phải do nghiên cứu thần túy hay học tập mà có được; nhưng nó là thành quả của một quá trình tu tập và ứng dụng giáo lý của đức Phật vào trong đời sống hằng ngày ngang qua ba nghiệp thân, khẩu,ý. Nó chính là chất liệu từ bi-trí tuệ của đạo Phật được tẩm ướt và thẩm thấu vào thân tâm, tạo nên tư cách của một tu sĩ Phật giáo biểu mẫu về đạo đức và trí tuệ của đạo Phật, như kinh Pháp cú dạy:
                        “Hương thơm các loại hoa
                        Không ngược bay chiều gió,
                        Nhưng hương người đức hạnh
                        Ngược gió khắp tung bay,
                        Chỉ có bậc chân nhân
                        Tỏa khắp mọi phương trời.”
                                                            PC 54
            Chính sự biểu hiện tinh thần tri hành hợp nhất, nói sao làm vậy, làm sao nói vậy từ cuộc sống  của những nhân cách này sẽ khiến cho niềm tin của tín đồ, quần chúng trở nên kiên cố đối với Phật pháp như lời đức Phật dạy : “Này Ưu Ba Li (Upali), do mười mục đích các học pháp được thiết lập cho các đệ tử Như lai và giới bổn Patimokkha được tuyên đọc? Thế nào là mười?... Để đem lại tịnh tín
Cho những người không tin (những người chưa có lòng tin Phật, chưa hiểu pháp sẽ có lòng tin nhờ cuộc sống đúng như pháp, như luật của hàng ngũ Tỳ kheo); Để làm tịnh tín tăng trưởng cho những người có lòng tin (những người hiểu pháp, có lòng tin Tam bảo sẽ có an lạc, hoan hỉ khi thấy giới luật của Như lai được khéo hộ trì…”.
            Đây chính là nội dung của cái gọi là “sức mạnh nội tâm” của một hành giả Phật giáo. Sức mạnh này sẽ phát ra một năng lượng gọi là từ trường, có khả năng chuyển hóa nội tâm những người đang bị bối rối bởi chính dục vọng của mình, đang trải nghiệm khổ đau bởi lòng sân hận và chấp thủ của tự thân. Sức mạnh nội tâm này như một cơn mưa giữa mùa hạ, nhanh chóng làm dịu đi cái nóng oi bức tạo nên sự bất an, khó chịu cho mọi loài. Một hành giả chân chính của Phật giáo luôn là cọng nghiệp tốt cho cộng đồng và xã hội; bởi vì cứ mỗi lần được tiếp xúc, thân cận, gần gũi với những con người chân chính này, cảm giác bình an, thư thái, thanh thản, nhẹ nhàng sẽ sinh ra trong tâm của người ta bởi vì hương vị giải thoát của tâm vô tham, vô sân, vô si của chính hành giả tỏa ngát khiến cho tâm hồn của người ta cảm thấy lắng dịu mọi ưu phiền, lo lắng. Có lẽ đâu là những phẩm chất mà nhân loại đang cần và cũng là ưu điểm của những tu sĩ chân chính của Phật giáo có thể đóng góp cho cuộc đời.
Đây cũng chính là khát khao, hoài vọng mà những con người văn minh Âu Mỹ đang cần khi họ phát biểu rằng: “giá trị chân chính không phải là cái con người đang có, mà giá trị đích thực là chính những gì họ đang sống.”
            Rõ ràng, giáo lý Phật giáo có thể sản sinh ra những giá trị như thế! Bởi vì, thế giới Âu Mỹ đã thật sự tâm phục, khẩu phục khi nhận thức rõ ràng rằng những giá trị mà họ mong ước đã được thể hiện hoàn toàn qua cuộc đời đức Phật. Những lời phát biểu sau đây của Herman Hess, giải văn chương Nobel, sẽ minh chứng cho quan điểm này, “…Những nội dung tri thức của lời Phật dạy chỉ là một nửa  sự đóng góp của Ngài. Nửa còn lại là đời sống của Ngài, đời sống thực mà Ngài sống…Trong suốt 45 thuyết giảng thành công và sinh động, đức Phật đã thể hiện lời nói của mình bằng hành động.”
 
TT.TS Thích Viên Trí
Phó Viện Trưởng Học Viện PGVN tại TP.HCM
 
                                                                          
                                                                                 
 
Chia sẻ với bạn bè qua: