610 381
Nghiên Cứu » Phật Pháp Ứng Dụng
Chia sẻ với bạn bè qua:
Đông Triều. 10:16:54 24-09-2015 (GMT+7).
Kích cỡ chữ: Giảm Tăng

Quan Điểm Phật Giáo Về Sát Sinh, Chiến Tranh Và Lòng Yêu Nước

Quan Điểm Phật Giáo Về Sát Sinh, Chiến Tranh Và Lòng Yêu NướcChiến tranh đi liền với sát sinh. Chiến tranh đồng nghĩa với tội ác. Sát sinh là nhân, chiến tranh là quả và ngược lại. Hai yếu tố này hỗ trợ cho nhau để tạo nên chia lìa, đau đớn, khủng hoảng, tan tóc, đau thương cho cuộc đời. Khi nào còn chiến tranh, nghĩa là con người còn phải gánh chịu đau khổ, giết hại, thù hằn, đấu tố. Chiến tranh sẽ không bao giờ chấm dứt nếu con người còn tâm địa giết hại thú vật không thương tiếc, giẫm lên mạng sống của muôn vật, không biết quý trọng mạng sống của đồng loại.
Thích Giác Hoàng
Nhân trả lời một nghi vấn của một Phật tử: “Tổng thống Bush có phạm tội sát sinh hay không khi đem quân đi đánh Afghanistan hay không?”Người viết xin trình bày sơ bộ các cách phán đoán tội của một người phạm tội sát sinh cũng như các cấp độ của sát sinh và vài vấn đề liên hệ đến chiến tranh để bổ sung cho câu trả lời trên.
I. Các yếu tố cần và đủ để đánh giá một hành động sát sinh:
Theo quan điểm của Ngài Buddhaghosa (Phật Âm hoặc Phật Minh), nhà sớ giải lớn nhất của Phật giáo Thượng Tọa Bộ, muốn đánh giá mức độ bất thiện của hành động sát sinh cần dựa vào năm yếu tố:
1. Ðối tượng: Con người, phi nhân, động vật bậc thấp hay động vật bậc cao.
2. Tác ý: hành động được đi kèm với nhận thức, ý thức, có suy nghĩ thận trọng và có mục đích.
3. Nhận thức: Nhận rõ đối tượng mình giết là loài gì.
4. Nỗ lực: Bất cứ hình thức nào dẫn đến cái chết
5. Kết quả: Con người chết là do hành động của mình.
Tiêu chí trên được áp dụng cho cách phán đoán mức độ phạm tội của các hàng Tỳ-kheo hoặc Tỳ-kheo-ni, đặc biệt là bốn trọng giới: dâm, đạo, sát, vọng. Tuy nhiên, chúng ta có thể áp dụng rộng rãi để đánh giá mọi hành động thiện hoặc bất thiện trong xã hội ngày nay. Cũng cần nói ở đây, theo ý của người viết chỉ cần bốn yếu tố là đủ rồi, không cần yếu tố thứ ba, vì yếu tố này đã thuộc vào yếu tố thứ hai. Ðại Ðức Thanissaro trong tác phẩm The Buddhist Monastic Code cũng đồng ý quan điểm này. Vì nếu không nhận rõ đối tượng mình giết là ai, làm sao gọi là “tác ý” được? Do đó, chúng tôi chỉ trình bày 4 yếu tố thôi.
1. Ðối tượng
Vì đối tượng bị giết khác nhau, nên dẫn đến tội khác nhau: Ví dụ, một vị Tỳ-kheo giết một một chúng sanh không phải là con người như một Dạ-xoa (Yakkha), một Naga, một loại quỷ (peta), thậm chí là một chư thiên (davata) thì phạm tội Thâu-lan-giá, chứ không phạm tội Ba-la-di(Pàràjika).
Một vị Tỳ-kheo cố ý giết một động vật thì bị xem như là phạm tội Ba-dật đề (Pacittiya) (giới 61) chứ không bị phạm Ba-la-di.
Trong Kinh có ghi một trường hợp: một vị Tỳ-kheo đào hố để sập bẫy người hay thú, nhưng nếu dã thú bị sập bẫy mà chết, ông chỉ phạm tội Ba-dật-đề (Pacittiya), ngược lại nếu người rơi vào đó mà chết, ông phạm tội Ba-la-di.
Nếu một vị Tỳ-kheo cố ý tước đoạt mạng sống của con người dù là “phá thai” như bằng cách sắp xếp chỗ mổ, cung cấp thuốc thang, khuyến khích hướng dẫn phá thai đều phạm tội Ba-la-di.
Nếu đối tượng bị giết hại là cha mẹ, là các bậc A-la-hán hoặc các bậc Thánh khác thì chịu tội cực nặng, nặng hơn ba-la-di, sau khi thân hoại mạng chung, do nghiệp ác chiêu cảm liền đi vào các cảnh giới đau khổ như các địa ngục Vô Gián.
2. Tác ý
Ðây là điểm quan trọng nhất trong 5 yếu tố. Vì “tác ý” (cetanà) là quyết định có dụng tâm, có ý thức và có mục đích”. Đức Phật nói, “Này các Tỳ-kheo, chính tác ý là nghiệp” (Cetanaaha"m bhikkhave kamma"m vadaami).
Do đó, cũng cùng một hành động, kết quả giống nhau, nhưng tác ý khác nhau, dẫn đến nghiệp quả khác nhau. Ví dụ, một người làm nhà ở trên vô tình làm rớt đồ xuống người phía dưới, có thể dẫn đến tử vong. Trường hợp như vậy, không kết tội người ấy là kẻ giết người được. Một người tài xế, xe bị đứt thắng, vô tình làm chết cả mấy chục người. Kết cục là vậy, nhưng không thể kết tội tài xế ấy là giết người được!
Trong Luật tạng ghi lại câu chuyện một vị vì thương đồng học của mình mà giới thiệu thuốc để uống, nhưng rất tiếc cả hai đều không biết dược tính của thuốc ấy và bệnh trạng, thế là sau khi uống xong, người bệnh chết. Ðiều này cũng không thể kết tội vị kia là kẻ sát nhân được.
Trường hợp không cố ý giết, chỉ muốn làm bị thương hoặc đau đớn, nhưng không ngờ kết quả dẫn đến cái chết, thì chỉ phạm tội Ba-dật-đề(Pacittiya).
3. Nỗ lực
“Nỗ lực” ở đây không chỉ cho ý chí muốn giết, mà chỉ cho ý chí đó được thể hiện bằng hành động, ngôn ngữ. Bộ Samantapàsàdikà liệt kê 6 cách sau có thể dẫn đến chấm dứt đời sống của một chúng sanh. Ðó là: (i) Chính tay người ấy hạ sát, (ii) xúi giục kẻ khác hạ sát, (iii) các loại vũ khí như tên, đạn, (iv) dùng thủ đoạn (như sập bẫy hoặc thuốc độc), (v) ma thuật hoặc bằng năng lực huyền bí. Nói chung, dù gián tiếp hoặc trực tiếp sát hại một con người đều phạm tội sát cả. Trường hợp giả như kẻ kia đáng lẽ bị tự tay mình giết, nhưng chưa kịp thực hiện được ý định của mình, kẻ kia lại tự vẫn, hoặc bị chết do ai giết, v.v… thì cũng không buộc người có ý định giết người kia là phạm giới sát “ba-la-di” .
Bộ Samanta Pàsàdika cho rằng một vị Tỳ-kheo xúi giục mọi người rằng: tại một địa điểm nào đó có một tướng cướp đang trú ẩn, nếu ai cắt đầu được tên tướng cướp kia thì được vinh dự, được nhiều vàng bạc, v.v… Nếu tên tướng cướp kia bị giết do lời xúi giục của vị Tỳ-kheo này thì vị Tỳ-kheo ấy cũng phạm tội Ba-la-di. Nói chung, khi thọ mạng của con người chưa hết, mà bằng cách hiểm độc nào đó khiến cho người kia chết, đều phạm tội Ba-la-di. Trong Vinita Vatthu ghi lại câu chuyện một tội phạm bị chính quyền chặt tay, chặt chân, sống trong sự đau khổ. Một vị Tỳ-kheo bảo với thân nhân của anh chàng kia rằng: các ngươi có muốn hắn chết sớm không? Nếu muốn thì cho hắn uống thuốc độc, thế là họ làm theo. Nếu vậy, vị Tỳ-kheo kia phạm Ba-la-di.
Nói về các nguyên nhân dẫn đến người tử vong thì vô số, nhất là trong chiến tranh, vô số thủ đoạn được thực hiện để đạt được mục tiêu “chiến thắng” của mình. Do đó, bất cứ phương tiện nào được sử dụng có chủ ý giết người thì người thực hiện đều phạm tội sát sinh cả.
4. Kết quả
Một khi đã có tác ý cố sát, biết rõ đối tượng mình sát là con người, dùng nhiều thủ đoạn, mưu mẹo để giết, nhưng kết quả khác nhau, thì luận tội cũng khác nhau.
Nếu có một Tỳ-kheo phạm tội giết người có chủ ý, như vậy vị ấy phạm Ba-la-di rồi, nhưng nếu đối tượng kia không chết liền, mà đau đớn, chết từ từ có phạm không? Chắc chắn là phạm ! Tuy nhiên, nếu người kia không chết, mà chỉ bị tổn thương đến sức khỏe, đến thể hình thì người kia không phạm Ba-la-di mà chỉ phạm Thâu-lan-giá (Thullaccaya). Nếu đã cố tâm, nhưng không làm cho người kia chết hoặc đau đớn gì thì phạm tội đột-kiết-la (dukkata).
Bốn yếu tố này là điều kiện không thể thiếu để nhận định mức độ tội lỗi “sát sinh”. Các nguyên tắc này đã được Ngài Buddhaghosa và Ðại Ðức Thanissaro triển khai rộng, đặc biệt về các giới trọng của hàng Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni.
II. Các cấp độ sát sinh
Sát sinh nói riêng hoặc làm một việc bất thiện khác nói chung, có mối liên hệ mật thiết với tác ý và và mức độ hiểu biết của đương sự. Do đó, để đánh giá một hành động sát sinh ở mức độ nào, cần phải chia thành nhiều cấp độ để dễ đánh giá. Theo Tiến sĩ Peter Harvey, giới sát có thể chia thành 5 cấp độ, đại lược như sau: (1) hành động không có tác ý, làm tổn hại đến côn trùng; (2) Biết rõ hành động ấy là ác, nhưng không kềm chế được vì các tâm bất thiện đang khống chế; (3) Một hành động bất thiện, nhưng không biết rõ đối tượng mình giết là ai; (4) Một hành động bất thiện khi có tác ý, biết rõ những gì đang làm và biết rõ hành động ấy là bất thiện; (5) Một hành động bất thiện có chủ ý, biết rõ những gì đang làm, nhưng không nhận ra đó là hành động sai lầm.
Theo người viết, thứ tự từ nhẹ đến nặng phải được sắp xếp lại sau: (1) hành động không có tác ý, làm tổn hại đến côn trùng; (2) Một hành động bất thiện, nhưng không biết rõ đối tượng mình giết là ai; (3) Biết rõ hành động ấy là ác, nhưng không kềm chế được, vì các tâm bất thiện đang khống chế; (4) Một hành động bất thiện khi có tác ý, biết rõ những gì đang làm và biết rõ hành động ấy là bất thiện; (5) Một hành động bất thiện có chủ ý, biết rõ những gì đang làm, nhưng không nhận ra đó là hành động sai lầm. Trong cách sắp xếp của người viết, trật tự chỉ thay đổi số 2 thành số 3 và số 3 thành số hai.
1. Hành động không có tác ý, làm tổn hại đến côn trùng
Trong cuộc sống tương đối này, chúng ta đi lại, làm việc làm sao tránh khỏi giẫm đạp, giết hại những côn trùng, hoặc sâu bọ. Mặc dầu chư Tỳ-kheo được cảnh tỉnh là phải chú tâm đến từng bước chân của mình để khỏi đạp phải côn trùng, sâu bọ, nhưng không thể nào khỏi một cách tuyệt đối. Ví dụ: khi sử dụng đèn, đặc biệt các loại đèn dầu trong một số chùa quê thì con thiêu thân cứ đâm đầu vào lửa. Cuốc đất trồng cây, chăm sóc hoa kiểng, khai khẩn nương rẫy, ép mía làm đường,v.v… như ở các chùa miền quê Việt Nam, làm sao không sát hại côn trùng!
Các trường hợp bị bắt buộc như trên hoặc trong trường hợp tâm trí của can phạm bất thường, bị điên, bị khùng thì vị ấy không bị kết tội là “Ba-la-di” (Trong nhiều bộ Luật).
2. Một hành động bất thiện, nhưng không biết rõ đối tượng mình giết hại
Ví dụ, có người đi săn chỉ giương cung bắn chơi, không ngờ lại giết người, hoặc khi đi săn, chủ ý giết thú chứ không giết người, nhưng kết quả là “giết người”. Trong trường hợp như vậy, người giết nhầm kia không thể bị kết tội là kẻ “sát nhân” được. Cũng tương tự cho các vị xuất gia, tùy theo trường hợp mà xử trị.
3. Biết rõ hành động ấy là ác, nhưng không kềm chế được, vì các tâm bất thiện khống chế
Trường hợp này khi người sát hại biết việc làm của mình là tổn thương đến người khác, là vi phạm đạo đức xã hội,v.v… nhưng không thể làm chủ được các bản năng xung động như tham lam, sân hận đang phác tác dữ dội trong tâm. Có người làm xong rồi đi tù cũng chịu, còn thề độc là chết đọa địa ngục cũng cam lòng, v.v… Các hạng người này nóng nảy nhất thời, không kịp suy nghĩ chín chắn, cho nên tội nhẹ hơn người làm một việc mà biết rất rõ hành động đó là ác độc, nhưng vẫn cứ thực hiện để trả thù cho một chuyện gì đó. Hạng người này tuy bên ngoài có vẻ hơi ác, nhưng thật ra họ không có tâm ác độc sâu hiểm như hai cấp độ sau.
4. Một hành động bất thiện khi có tác ý, biết rõ những gì đang làm và biết rõ hành động ấy là bất thiện
Trường hợp này cũng có thể đi theo chiều hướng tốt hoặc chiều hướng xấu. Nếu đã biết rõ đó là hành động xấu, đem lại kết quả xấu mà vẫn làm, chứng tỏ con người có lập trường, có quan điểm độc lập, có bản lĩnh, nhưng khó tiến bộ về phương diện đạo đức và tâm linh vô cùng. Tuy nhiên, họ cũng có thể tiến bộ, vì đã nhận ra đó là hành động xấu, có thể đem đến nghiệp quả xấu cho mình, cho nên các tâm niệm hối hận có thể xuất hiện. Chính nhờ các tâm niệm hối hận xuất hiện mà họ có thể quay đầu hướng thiện một cách dễ dàng.
5. Một hành động bất thiện có chủ ý, biết rõ những gì đang làm, nhưng không nhận ra đó là hành động sai lầm
Trường hợp này được cho là tệ hại nhất vì nó kết hợp với vô minh. Mặc dầu thông thường chúng ta dễ đi đến kết luận là hành động này vô tội, vì họ làm nhưng không biết đó là một hành động bất thiện, cứ tưởng rằng đó là đúng. Giống như một người gây tội giết người mà họ không biết hành động đó sẽ dẫn đến tù chung thân hoặc bị xử tử, vì họ không biết được luật pháp !
Kinh Na-tiên Tỳ-kheo cho rằng kẻ trí làm điều dữ ít bị tai vạ hơn người ngu. Ngài Na-tiên đưa ra ví như hai người cầm một khúc củi cháy đỏ, người không biết nó nóng sẽ bị phỏng nhiều hơn người biết rõ nó nóng như thế nào. Vì người trí, khi phạm một lỗi lầm, có thể khởi lên tâm ân hận, ăn năn hối lỗi, hoặc làm các việc phước thiện để bù lại, còn người ngu thì không biết đó là tội, thế là làm hoài, các nghiệp ác làm nhân làm duyên cho nhau, thế là mãi miết làm ác và chịu quả báo đau khổ triền miên!
III. Phật giáo và Chiến tranh.
1. Quan điểm của Phật giáo về chiến tranh
Nói một cách tổng quát, Phật giáo không chấp nhận chiến tranh dưới bất cứ hình thức nào, dù đó là chiến tranh dưới danh nghĩa gì. Vì chiến tranh là đồng nghĩa với tội ác, là gieo rắt sự nghèo nàn, tật bệnh, đói khát cho cả hai: chủ chiến và bị chiến. Chưa từng thấy có một đoạn nào Kinh điển nào trong Phật giáo tán thưởng đánh phá lẫn nhau, dù đó là đánh với danh nghĩa “cứu khốn phò nguy” hay danh nghĩa “bảo vệ quốc gia”. Như chúng ta thấy, chính dòng họ của đức Phật gần như gặp phải nạn diệt chủng, thế mà đức Phật không dùng thần thông để đánh bại kẻ thù, cứu lấy giòng tộc! Khi vua Tỳ-lưu-ly đem quân đánh phá thành Ca-tỳ-la-vệ để trả thù cái nợ xỉ nhục của ông khi trước, đức Phật đã ba lần trưa nắng ra tận biên ải để khuyến hóa vua Tỳ-lưu-ly cũng như để cản bước tiến của đoàn quân thiện chiến của Tỳ-lưu-ly. Nhưng kết quả ra sao? Bất thành! Vua Tỳ-lưu-ly đã làm cỏ dòng họ Thích-ca. Đặt trường hợp chúng ta, có lẽ chúng ta đã nghĩ rằng chúng ta phải có nhiệm vụ bảo vệ giang san, xã tắc, đánh bật kẻ thù, v.v…. và viện dẫn bao nhiêu là lý do để bào chữa hành động của mình. Nhưng đức Phật thì khác, với Phật nhãn Ngài biết rõ đâu là nhân, đâu là duyên của chiến tranh đó. Ngài còn chỉ trích các Bà-la-môn đã thọ nhận tín thí cúng dường mà còn bàn đến chiến sự (Kinh Phạm Võng, số 1, thuộc Trường Bộ Kinh). Lại nữa, trong Giới của hàng Tỳ-khưu (số 48 thuộc Ba-dật-đề) không được xem diễn binh tập trận. Qua đó, chúng ta thấy thái độ của đức Phật, không giống như các vị giáo chủ khác, Ngài không hề quan tâm đến chính sự. Nói như vậy, không có nghĩa là cả cuộc đời đức Phật không có đối mặt đến những vấn đề chính trị, tội phạm, chiến tranh. Xin đưa ra hai dẫn chứng. Một lần dòng họ Sakya (Thích-ca) và dòng họ Koliya chuẩn bị đánh nhau vì tranh chiếm dòng nước. Ngài nhận thấy nhân duyên Ngài có thể hóa độ được, nên Ngài đã đích thân đến phân giải, cuối cùng hai bên đều hòa thuận và sử dụng chung dòng nước. Trường hợp thứ hai, khi vua A-xà-thế (Ajàtasattu) muốn cất binh đánh nước Vajjì, liền sai đại thần Vassakàra (Vũ-xá) đến thỉnh vấn đức Thế Tôn, đức Phật không trả lời trực tiếp, mà chỉ hỏi tôn giả A-nan (Ànanda) về truyền thống tốt đẹp của dân Vajjì có được gìn giữ không? Qua đó, đại thần Vassakàra đã hiểu được yếu chỉ của đức Thế Tôn muốn nói. (Kinh Ðại-bát Niết-bàn, số 16, thuộc Trường Bộ)
Trở lại vấn đề mà nhiều người thường đặt câu hỏi: Trường hợp các cuộc thánh chiến của Thiên Chúa giáo và Hồi giáo thời Trung cổ và cận đại, các cuộc thánh chiến xâm lăng thuộc địa của Hồi giáo ở vùng Trung Á và Tây Á, hoặc các cuộc xâm lăng của các Ðế quốc thuộc Thiên Chúa giáo để mở mang nước chúa, họ có tội không? Vì họ nghĩ rằng họ làm vì chúa, họ đâu làm vì bản thân họ, cho nên sẵn sàng hy sinh thân mình. Theo lời Phật dạy, gieo ác nhân thì gặt ác quả. Do đó, họ mãi bị cộng nghiệp chiến tranh, giết hại lẫn nhau, oan oan tương báo, không biết khi nào mới chấm dứt được.
 
Nguồn PGVN
Chia sẻ với bạn bè qua: