Hoằng pháp là một trong những sứ mệnh quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của một tôn giáo.. Phật giáo cũng không ngoại lệ. Nghiên cứu các giai đoạn thăng trầm của hơn 2000 năm lịch sử Phật giáo Việt Nam, người ta sẽ nhận ra được tầm quan trọng của công tác hoằng pháp. Tìm hiểu nguyên nhân đưa đến giai đoạn vàng son của Phật giáo Việt Nam thời Lý Trần, chúng ta dễ dàng thấy được vai trò tích cực công tác hoằng pháp trong thời điểm lịch sử ấy. Nhưng yếu tố nào trong công tác hoằng pháp của Phật giáo Lý Trần đã tạo nên những dấu ấn lịch sử như thế? Có thể nói rằng để có được một sự thành công như thế, hoằng pháp thời Lý Trần phải hội đủ 2 yếu tố quan trọng: Nội dung hoằng pháp và con người hoằng pháp.
Tất nhiên, nội dung hoằng pháp của đạo Phật bao giờ cũng đặt nền tảng trên lời dạy của đức Phật trong tam tạng thánh điển; nhưng vấn đề cốt lõi đóng vai trò chủ đạo trong việc thành bại của công tác hoằng pháp bao giờ cũng là yếu tố nhân sự. Nói khác đi, nếu không có những con người đầy đủ phẩm chất cần thiết cho công tác hoằng pháp, hiệu quả của hoằng pháp sẽ rất giới hạn, nếu như không muốn nói là không có tác dụng.
Trong Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo Việt Nam, nói đến công tác hoằng pháp là nói vai trò của Tăng Ni. Xét trên một khía cạnh nào đó, đây là một nét đặc thù của Phật giáo Việt Nam; nhưng xét trên tinh thần đại chúng, đây lại là một sự hạn chế, đặc biệt nếu đặt vấn đề này trong bổi cảnh xã hội hiện nay. Tuy nhiên, trong phạm vi bài tham luận này, người viết sẽ tập trung bàn thảo về đội ngũ Tăng Ni giảng sư.
Đối với Phật giáo, khi nói đến yếu tố nhân sự là nói đến Tăng đoàn. Sự sống còn của Phật giáo trong quá khứ, hiện tại và mãi mãi về sau luôn phụ thuộc vào Tăng đoàn mà không bao giờ là cá nhân; bởi lẽ Tăng bảo là một trong ba ngôi Tam bảo cao quý. Nhưng để có một Tăng đoàn thực sự vững mạnh, có khả năng chuyển tải giáo lý từ bi-trí tuệ, vô ngã-vị tha của đạo Phật đến với quần chúng, thành viên của Tăng đoàn phải hội đủ những yếu tố cần và đủ để xứng đáng với danh hiệu là “Sứ giả của Như lai”. Bởi vì, sức mạnh của một tổ chức xã hội luôn luôn phụ thuộc vào phẩm chất của thành viên. Không thể có một xã hội lành mạnh khi mà những thành viên của nó sống thiếu ý tưởng, thiếu trình độ, thực dụng, bè phái, phe đảng, tham nhũng, hối lộ. Tương tự như thế, không thể có một Tăng đoàn Phật giáo tồn tại đúng ý nghĩa khi các Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni không hội đủ được những phẩm chất căn bản của một người xuất gia. Không thể có một lực lượng hoằng pháp hùng mạnh để đảm trách sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh báo Phật ân đức, nếu đội ngũ hoằng pháp coi trọng kiến thức, bỏ qua phần tự thân tu tập, quá nặng nề về hình thức, xem nhẹ phần thực chất. Bởi lẽ, phẩm chất của các hoằng pháp viên trong lãnh vực hoằng pháp đóng một vai trò vô cùng quan trọng, vì ảnh hưởng của Phật giáo tích cực hay tiêu cực, mạnh mẽ hay yếu ớt, rộng lớn hay hạn chế luôn phụ thuộc vào đạo đức, trình độ kiến thức, đặc biệt là sức mạnh nội tâm của hàng ngũ này. Trong bối cảnh xã hội ngày nay, với sự tiện lợi của ngành công nghệ thông tin, người ta có thể tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi Phật pháp qua sách vở, hệ thống internet, website vv…một cách dễ dàng. Nói khác đi, xã hội ngày nay không cần quá nhiều những chuyên viên tôn giáo hay những người xem đời sống tu hành là một nghề sinh nhai, đi rao giảng những kiến thức thuần túy mà họ học hỏi, góp nhặt, thu thập, tom góp được từ trường lớp, báo đài, internet vv…bởi vì, quần chúng ngày nay dường như đã khá mệt mõi và mất niềm tin với những người hành nghề tôn giáo, rao giảng luân lý, đạo đức, vô ngã-vị tha nhưng dễ dàng thất vọng, buồn phiền khi tự ngã bị tổn thương, luôn luôn nổi sân khi địa vị, quyền lợi không được thỏa mãn…Có lẽ, con người đương thời đang cần đến một đội ngũ tu sĩ Phật giáo chân chính, những người có thể chia xẻ kinh nghiệm hành trì, có khả năng giúp họ đi ra những rắc rối trong đời thường, có thể đem đến những phút giây an tịnh cho con người trong một xã hội đầy biến động và nhiều sức ép, có thể tạo ra niềm tin tốt đẹp và lạc quan khi người ta có cơ hội đến gần. Theo thiển ý của người viết, để có thể đáp ứng được những yêu cầu trên, một giảng sư Phật giáo cần hội đủ các yêu cầu quan trọng sau đây:
Tất nhiên, nội dung hoằng pháp của đạo Phật bao giờ cũng đặt nền tảng trên lời dạy của đức Phật trong tam tạng thánh điển; nhưng vấn đề cốt lõi đóng vai trò chủ đạo trong việc thành bại của công tác hoằng pháp bao giờ cũng là yếu tố nhân sự. Nói khác đi, nếu không có những con người đầy đủ phẩm chất cần thiết cho công tác hoằng pháp, hiệu quả của hoằng pháp sẽ rất giới hạn, nếu như không muốn nói là không có tác dụng.
Trong Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo Việt Nam, nói đến công tác hoằng pháp là nói vai trò của Tăng Ni. Xét trên một khía cạnh nào đó, đây là một nét đặc thù của Phật giáo Việt Nam; nhưng xét trên tinh thần đại chúng, đây lại là một sự hạn chế, đặc biệt nếu đặt vấn đề này trong bổi cảnh xã hội hiện nay. Tuy nhiên, trong phạm vi bài tham luận này, người viết sẽ tập trung bàn thảo về đội ngũ Tăng Ni giảng sư.
Đối với Phật giáo, khi nói đến yếu tố nhân sự là nói đến Tăng đoàn. Sự sống còn của Phật giáo trong quá khứ, hiện tại và mãi mãi về sau luôn phụ thuộc vào Tăng đoàn mà không bao giờ là cá nhân; bởi lẽ Tăng bảo là một trong ba ngôi Tam bảo cao quý. Nhưng để có một Tăng đoàn thực sự vững mạnh, có khả năng chuyển tải giáo lý từ bi-trí tuệ, vô ngã-vị tha của đạo Phật đến với quần chúng, thành viên của Tăng đoàn phải hội đủ những yếu tố cần và đủ để xứng đáng với danh hiệu là “Sứ giả của Như lai”. Bởi vì, sức mạnh của một tổ chức xã hội luôn luôn phụ thuộc vào phẩm chất của thành viên. Không thể có một xã hội lành mạnh khi mà những thành viên của nó sống thiếu ý tưởng, thiếu trình độ, thực dụng, bè phái, phe đảng, tham nhũng, hối lộ. Tương tự như thế, không thể có một Tăng đoàn Phật giáo tồn tại đúng ý nghĩa khi các Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni không hội đủ được những phẩm chất căn bản của một người xuất gia. Không thể có một lực lượng hoằng pháp hùng mạnh để đảm trách sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh báo Phật ân đức, nếu đội ngũ hoằng pháp coi trọng kiến thức, bỏ qua phần tự thân tu tập, quá nặng nề về hình thức, xem nhẹ phần thực chất. Bởi lẽ, phẩm chất của các hoằng pháp viên trong lãnh vực hoằng pháp đóng một vai trò vô cùng quan trọng, vì ảnh hưởng của Phật giáo tích cực hay tiêu cực, mạnh mẽ hay yếu ớt, rộng lớn hay hạn chế luôn phụ thuộc vào đạo đức, trình độ kiến thức, đặc biệt là sức mạnh nội tâm của hàng ngũ này. Trong bối cảnh xã hội ngày nay, với sự tiện lợi của ngành công nghệ thông tin, người ta có thể tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi Phật pháp qua sách vở, hệ thống internet, website vv…một cách dễ dàng. Nói khác đi, xã hội ngày nay không cần quá nhiều những chuyên viên tôn giáo hay những người xem đời sống tu hành là một nghề sinh nhai, đi rao giảng những kiến thức thuần túy mà họ học hỏi, góp nhặt, thu thập, tom góp được từ trường lớp, báo đài, internet vv…bởi vì, quần chúng ngày nay dường như đã khá mệt mõi và mất niềm tin với những người hành nghề tôn giáo, rao giảng luân lý, đạo đức, vô ngã-vị tha nhưng dễ dàng thất vọng, buồn phiền khi tự ngã bị tổn thương, luôn luôn nổi sân khi địa vị, quyền lợi không được thỏa mãn…Có lẽ, con người đương thời đang cần đến một đội ngũ tu sĩ Phật giáo chân chính, những người có thể chia xẻ kinh nghiệm hành trì, có khả năng giúp họ đi ra những rắc rối trong đời thường, có thể đem đến những phút giây an tịnh cho con người trong một xã hội đầy biến động và nhiều sức ép, có thể tạo ra niềm tin tốt đẹp và lạc quan khi người ta có cơ hội đến gần. Theo thiển ý của người viết, để có thể đáp ứng được những yêu cầu trên, một giảng sư Phật giáo cần hội đủ các yêu cầu quan trọng sau đây:
- Tầm nhìn:
Yêu cầu tất yếu đối với người hoằng pháp dĩ nhiên là trình độ Phật pháp. Tuy nhiên, vấn đề người viết muốn trình bày ở đây không phải kiến thức Phật học của người hoằng pháp, mà là cái nhìn thấu suốt của họ về giáo lý Phật giáo. Một hoằng pháp viên phải là người hiểu biết một cách rõ ràng tầm quan trọng về phương diện lịch sử và tư tưởng của Phật giáo từ khởi nguyên đến hiện tại; bởi vì: “Nếu sự khởi nguyên của các tôn giáo thế giới là những chủ đề có ý nghĩa và rất đáng được quan tâm nghiên cứu, thì sự phát triển và mở mang của chúng cũng không kém phần quan trọng…” Do vậy, một hoằng pháp viên cần nhận chân một cách thấu đáo mối quan hệ hổ tương giữa các hệ thống triết học của đạo Phật từ khởi nguyên đến các giai đoạn phát triển; vì đây là một trong những yêu cầu tất yếu cho sự tồn tại của Phật giáo giữa các nền văn hóa khác nhau. Sự hình thành và phát triển các bộ phái Phật giáo theo thời gian là nhằm mục đích đáp ứng những nhu cầu đa dạng của con người, mà không phải là sự phát triển mang tính cục bộ, phân loại cao thấp, bè phái riêng rẽ, không có sự nối kết với nhau. Tất nhiên, về hình thức tổ chức và phương pháp vận dụng triết lý có sự khác nhau để phù hợp với nhu cầu tri thức của con người từng thời đại, nhưng những triết lý cốt tủy của Phật giáo là không thể có sự khác nhau.
Khi được trang bị một sự hiểu biết như thế, một số quan điểm sai lầm, ngộ nhận xưa nay như Nguyên Thủy hay Nam truyền Phật giáo mới là chánh thống, Phật giáo Bắc tông hay Phát triển không phải là chánh thống; hoặc Phật giáo Nam truyền là Tiểu thừa, Phật giáo Bắc truyền là Đại thừa sẽ không còn cơ sở để tồn tại. Nói khác đi, những ý tưởng chấp thủ bộ phái, vùng miền, đại tiểu, cao thấp cần phải được chuyển hóa và loại trừ. Tuy nhiên, trong thực tế của Tăng đoàn Phật giáo, tầm nhìn này dường như vẫn chưa được phát huy một cách tích cực; từ đó, chủ nghĩa bộ phái, khuynh hướng đề cao cá nhân đã ảnh hưởng khá rõ nét trong tư duy cũng như sinh hoạt của đại đa số đệ tử Phật. Theo thiển ý của người viết, đây có thể xem là một trong những trở lực lớn khiến hiệu quả của ngành Hoằng pháp còn nhiều hạn chế.
Một thực tế quan trọng khác cần phải nhìn nhận là khả năng thích nghi của Phật giáo với những thay đổi và cải tiến không ngừng của con người và xã hội. Những thách thức mà các nền văn hóa đương thời đang đối mặt hình như chưa được giới Phật giáo nhận thức đúng mức. Trong làn sóng toàn cầu hóa hiện nay, toàn cầu hóa Văn hóa là một vấn nạn mà giới Phật giáo cần phải cân nhắc thận trọng. Bởi vì nếu người ta có thói quen chuộng ngoại, đề cao mọi sản phẩm ngoại nhập, bao gồm cả sản phẩm tôn giáo, thì sự bành trướng của tôn giáo ngoại lai là một điều khó tránh được. Sự cải đạo tín đồ Phật giáo, những sinh hoạt tôn giáo mang tính thần quyền, cầu xin, cứu rỗi…như là một vết dầu loan đang thẩm thấu từng ngày, từng giờ vào các sinh hoạt của người Phật tử là minh chứng rõ ràng cho hiện tượng này. Hệ lụy của nó đang làm xói mòn và suy yếu dần những truyền thống tâm linh của Phật giáo Việt Nam. Bên cạnh ấy, sự khủng hoảng về đạo đức, văn hóa, giáo dục…mà xã hội Việt Nam đang phải đối đầu thì giới Phật giáo vẫn chưa nhận chân đúng mức và chưa vận dụng được tinh thần trí tuệ và nhân bản qua lời Phật dạy để xây dựng một định hướng hoằng pháp trong bối cảnh văn hóa đầy phức tạp, rối ren và đầy bạo động như thế.
Quan trọng hơn nữa, phần lớn tuổi trẻ ngày nay mỗi ngày một cách xa đạo Phật là một câu hỏi bức thiết cần phải được quan tâm. Có ý kiến cho rằng chùa chiền Việt Nam là nơi dành cho những người lớn tuổi và phụ nữ. Nhìn số lượng tín đồ đến chùa vào những ngày chủ nhật, lễ vía có lẽ nhiều người có thể đồng tình với quan điểm vừa nêu. Bởi lẽ, nhà chùa vẫn là một trú xứ còn xa lạ với tuổi trẻ. Hay nói theo ngôn ngữ của tuổi trẻ, trong sân chùa không có không gian cho tuổi trẻ, bởi lẽ mọi sinh hoạt của chùa chiền hiện nay ít quan tâm hay không phù hợp với lứa tuổi này. Thử trầm tư vào cách truyền đạo của các tôn giáo bạn! Những buổi thuyết giảng thường kỳ, những lớp giáo lý dành cho từng lứa tuổi và những sinh hoạt mang tính cộng đồng đã phát huy được niềm tin, nguồn cảm hứng và ý thức tự giác cho mọi người. Tín đồ của họ luôn bao gồm đủ mọi lứa tuổi, thành phần; thậm chí tuổi trẻ chiếm đa số trong các ngày lễ của họ; trong số này không thiếu thành phần thanh thiếu niên thuộc gia đình Phật tử! Có thể thấy rằng chiến lược truyền giáo của họ là chìa khóa chính đưa đến sự thành công trên. Như thế, tương lai của Phật giáo sẽ ra sao nếu như ngành hoằng pháp không bắt kịp những chuyển biến và thay đổi về nhận thức cũng như nhu cầu của xã hội. Nói khác đi, giáo lý Phật giáo có thể làm gì để giúp cho thế hệ trẻ định hướng được lý tưởng sống trong một thế giới đầy biến động, thách thức và quá nhiều cám dỗ. Làm thế nào để thu hút được sự quan tâm của tuổi trẻ đến với đạo Phật.
Rõ ràng, đây là những vấn nạn khó có thể giải đáp thỏa đáng tức thời, mà cần phải có một nổ lực chung để xây dựng một chiến lược hoằng pháp quy mô và hiệu quả. Cần phải nói rằng, trong định hướng cho tương lai, phương cách hoằng pháp truyền thống vẫn là một giải pháp không thể thiếu trong sứ mệnh truyền giáo, vì nó đáp ứng được một số nhu cầu thiêng liêng, bức xúc và thực tế của tín đồ. Phương cách này có thể giúp người ta giải quyết được những mất mát trong cuộc sống, làm giảm đi nổi đau mà người ta đang gặp phải và tạo niềm tin để tín đồ có thể bước vào con đường học đạo.Tuy nhiên, nếu chỉ có như thế thì chắc chắn Phật giáo Việt Nam không thể hoàn thành sứ mệnh truyền bá của mình; bởi vì tín đồ Phật giáo cần nhiều hơn thế nữa! Họ cần những giá trị thực tiển mà giáo lý nhà Phật có thể giúp họ lấy lại sự quân bình giữa cuộc đời đầy chao đảo, cảm nhận được sự an lạc nội tại giữa muôn vàn sự cám dỗ của thế giới vật chất, định hướng được tương lai mà họ cần đến. Làm thế nào để ngôi chùa sẽ trở thành chổ nương tựa mỗi khi họ cảm thấy mất niềm tin giữa cuộc sống! Làm thế nào để họ có những cảm giác bình an mỗi khi rời cổng chùa và cảm thấy tự tin về lý tưởng sống của mình trước nhiều chọn lựa. Đây có lẽ là những ẩn số cần phải được giải đáp trong sự nghiệp truyền bá Phật pháp.
Có phải chăng các bậc tiền nhân của chúng ta đã tìm được giải pháp tương đối thỏa đáng cho những câu hỏi vừa nêu trên khi những hạt giống Phật pháp đã được gieo trồng một cách vững chắc tại các vùng đất văn minh? Đâu là tinh thần cốt lõi của Phật giáo quốc tế trong việc truyền bá giáo lý Phật giáo tại những vùng đất văn minh này? Làm thế nào để Phật giáo đã và đang phát triển một cách vững chắc ở miền đất hứa của tôn giáo phương Tây. Tại sao càng ngày các trung tâm thiền định Phật giáo lại càng phát triển? Tại sao các khóa tu thiền của các Thiền sư kéo dài hàng tuần, hàng tháng lại luôn luôn thu hút một lượng hành giả (không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, giàu nghèo…) đến tu học. Loại sách gì về Phật giáo đang trở thành sách bán chạy nhất tại các đất nước mệnh danh văn minh này? Sức mạnh tâm linh nào của các nhà truyền giáo Phật giáo có thể làm lay động được cái nhìn của giới tri thức, lãnh đạo và giàu có của các vùng đất văn minh? Thiết nghĩ, đây có lẽ là những nguồn tham chiếu cần thiết cho Phật giáo Việt Nam trong định hướng phát triển của mình . (còn tiếp)
Khi được trang bị một sự hiểu biết như thế, một số quan điểm sai lầm, ngộ nhận xưa nay như Nguyên Thủy hay Nam truyền Phật giáo mới là chánh thống, Phật giáo Bắc tông hay Phát triển không phải là chánh thống; hoặc Phật giáo Nam truyền là Tiểu thừa, Phật giáo Bắc truyền là Đại thừa sẽ không còn cơ sở để tồn tại. Nói khác đi, những ý tưởng chấp thủ bộ phái, vùng miền, đại tiểu, cao thấp cần phải được chuyển hóa và loại trừ. Tuy nhiên, trong thực tế của Tăng đoàn Phật giáo, tầm nhìn này dường như vẫn chưa được phát huy một cách tích cực; từ đó, chủ nghĩa bộ phái, khuynh hướng đề cao cá nhân đã ảnh hưởng khá rõ nét trong tư duy cũng như sinh hoạt của đại đa số đệ tử Phật. Theo thiển ý của người viết, đây có thể xem là một trong những trở lực lớn khiến hiệu quả của ngành Hoằng pháp còn nhiều hạn chế.
Một thực tế quan trọng khác cần phải nhìn nhận là khả năng thích nghi của Phật giáo với những thay đổi và cải tiến không ngừng của con người và xã hội. Những thách thức mà các nền văn hóa đương thời đang đối mặt hình như chưa được giới Phật giáo nhận thức đúng mức. Trong làn sóng toàn cầu hóa hiện nay, toàn cầu hóa Văn hóa là một vấn nạn mà giới Phật giáo cần phải cân nhắc thận trọng. Bởi vì nếu người ta có thói quen chuộng ngoại, đề cao mọi sản phẩm ngoại nhập, bao gồm cả sản phẩm tôn giáo, thì sự bành trướng của tôn giáo ngoại lai là một điều khó tránh được. Sự cải đạo tín đồ Phật giáo, những sinh hoạt tôn giáo mang tính thần quyền, cầu xin, cứu rỗi…như là một vết dầu loan đang thẩm thấu từng ngày, từng giờ vào các sinh hoạt của người Phật tử là minh chứng rõ ràng cho hiện tượng này. Hệ lụy của nó đang làm xói mòn và suy yếu dần những truyền thống tâm linh của Phật giáo Việt Nam. Bên cạnh ấy, sự khủng hoảng về đạo đức, văn hóa, giáo dục…mà xã hội Việt Nam đang phải đối đầu thì giới Phật giáo vẫn chưa nhận chân đúng mức và chưa vận dụng được tinh thần trí tuệ và nhân bản qua lời Phật dạy để xây dựng một định hướng hoằng pháp trong bối cảnh văn hóa đầy phức tạp, rối ren và đầy bạo động như thế.
Quan trọng hơn nữa, phần lớn tuổi trẻ ngày nay mỗi ngày một cách xa đạo Phật là một câu hỏi bức thiết cần phải được quan tâm. Có ý kiến cho rằng chùa chiền Việt Nam là nơi dành cho những người lớn tuổi và phụ nữ. Nhìn số lượng tín đồ đến chùa vào những ngày chủ nhật, lễ vía có lẽ nhiều người có thể đồng tình với quan điểm vừa nêu. Bởi lẽ, nhà chùa vẫn là một trú xứ còn xa lạ với tuổi trẻ. Hay nói theo ngôn ngữ của tuổi trẻ, trong sân chùa không có không gian cho tuổi trẻ, bởi lẽ mọi sinh hoạt của chùa chiền hiện nay ít quan tâm hay không phù hợp với lứa tuổi này. Thử trầm tư vào cách truyền đạo của các tôn giáo bạn! Những buổi thuyết giảng thường kỳ, những lớp giáo lý dành cho từng lứa tuổi và những sinh hoạt mang tính cộng đồng đã phát huy được niềm tin, nguồn cảm hứng và ý thức tự giác cho mọi người. Tín đồ của họ luôn bao gồm đủ mọi lứa tuổi, thành phần; thậm chí tuổi trẻ chiếm đa số trong các ngày lễ của họ; trong số này không thiếu thành phần thanh thiếu niên thuộc gia đình Phật tử! Có thể thấy rằng chiến lược truyền giáo của họ là chìa khóa chính đưa đến sự thành công trên. Như thế, tương lai của Phật giáo sẽ ra sao nếu như ngành hoằng pháp không bắt kịp những chuyển biến và thay đổi về nhận thức cũng như nhu cầu của xã hội. Nói khác đi, giáo lý Phật giáo có thể làm gì để giúp cho thế hệ trẻ định hướng được lý tưởng sống trong một thế giới đầy biến động, thách thức và quá nhiều cám dỗ. Làm thế nào để thu hút được sự quan tâm của tuổi trẻ đến với đạo Phật.
Rõ ràng, đây là những vấn nạn khó có thể giải đáp thỏa đáng tức thời, mà cần phải có một nổ lực chung để xây dựng một chiến lược hoằng pháp quy mô và hiệu quả. Cần phải nói rằng, trong định hướng cho tương lai, phương cách hoằng pháp truyền thống vẫn là một giải pháp không thể thiếu trong sứ mệnh truyền giáo, vì nó đáp ứng được một số nhu cầu thiêng liêng, bức xúc và thực tế của tín đồ. Phương cách này có thể giúp người ta giải quyết được những mất mát trong cuộc sống, làm giảm đi nổi đau mà người ta đang gặp phải và tạo niềm tin để tín đồ có thể bước vào con đường học đạo.Tuy nhiên, nếu chỉ có như thế thì chắc chắn Phật giáo Việt Nam không thể hoàn thành sứ mệnh truyền bá của mình; bởi vì tín đồ Phật giáo cần nhiều hơn thế nữa! Họ cần những giá trị thực tiển mà giáo lý nhà Phật có thể giúp họ lấy lại sự quân bình giữa cuộc đời đầy chao đảo, cảm nhận được sự an lạc nội tại giữa muôn vàn sự cám dỗ của thế giới vật chất, định hướng được tương lai mà họ cần đến. Làm thế nào để ngôi chùa sẽ trở thành chổ nương tựa mỗi khi họ cảm thấy mất niềm tin giữa cuộc sống! Làm thế nào để họ có những cảm giác bình an mỗi khi rời cổng chùa và cảm thấy tự tin về lý tưởng sống của mình trước nhiều chọn lựa. Đây có lẽ là những ẩn số cần phải được giải đáp trong sự nghiệp truyền bá Phật pháp.
Có phải chăng các bậc tiền nhân của chúng ta đã tìm được giải pháp tương đối thỏa đáng cho những câu hỏi vừa nêu trên khi những hạt giống Phật pháp đã được gieo trồng một cách vững chắc tại các vùng đất văn minh? Đâu là tinh thần cốt lõi của Phật giáo quốc tế trong việc truyền bá giáo lý Phật giáo tại những vùng đất văn minh này? Làm thế nào để Phật giáo đã và đang phát triển một cách vững chắc ở miền đất hứa của tôn giáo phương Tây. Tại sao càng ngày các trung tâm thiền định Phật giáo lại càng phát triển? Tại sao các khóa tu thiền của các Thiền sư kéo dài hàng tuần, hàng tháng lại luôn luôn thu hút một lượng hành giả (không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, giàu nghèo…) đến tu học. Loại sách gì về Phật giáo đang trở thành sách bán chạy nhất tại các đất nước mệnh danh văn minh này? Sức mạnh tâm linh nào của các nhà truyền giáo Phật giáo có thể làm lay động được cái nhìn của giới tri thức, lãnh đạo và giàu có của các vùng đất văn minh? Thiết nghĩ, đây có lẽ là những nguồn tham chiếu cần thiết cho Phật giáo Việt Nam trong định hướng phát triển của mình . (còn tiếp)
TT. TS Thích Viên Trí
(Phó Viện trưởng Học viện PGVN tại TP.HCM)