Nguyên tác: The Basic Method of Meditation
Tác giả: Thiền sư Ajahn Brahmavamso
Dịch giả: Thiện Nhựt & Bình Anson
PL. 2548 - TL. 2004
Biên tập từ các bài pháp thoại của ngài Thiền sư
Ajahn Brahmavamso trong khóa thiền tích cực 9
ngày, vào tháng 12-1997, tại North Perth, Tây Úc.
Nguyên tác Anh ngữ được ấn tống lần đầu tiên năm
1998, đến năm 2003 đã được tái bản 7 lần, tổng cộng
60 ngàn quyển. Ngoài ra, tập sách này cũng đã được
dịch sang tiếng Sinhala và ấn tống ở Sri Lanka.
Mục lục
Vài nét về tiểu sử Thiền sư Ajahn Brahmavamso
Phần 1:
1) Chú tâm vững bền vào thời khắc hiện tại.
Phần 2:
2) Giác niệm tĩnh lặng về thời khắc hiện tại.
3) Giác niệm tĩnh lặng trong hiện tại về hơi thở.
4) Hoàn toàn chú tâm vững bền vào hơi thở.
Phần 3:
5) Hoàn toàn chú tâm vững bền vào hơi thở tuyệt đẹp.
6) Thể nghiệm định tướng mỹ lệ.
7) Sơ Thiền.
Đối chiếu thuật ngữ Anh-Việt
Vài nét về tiểu sử Thiền sư Ajahn Brahmavamso
Thiền sư Ajahn Brahmavamso sinh năm 1951 tại London, Anh quốc.
Ngài tự xem mình là một Phật tử ngay vào lứa tuổi mười bảy, sau khi
tự tìm hiểu và đọc các sách Phật giáo, trong lúc vẫn còn là một học
sinh trung học. Sự chú tâm của ngài về đạo Phật và Thiền càng nảy
nở thêm khi ngài theo học tại Đại học Cambridge, ngành Vật lý Lý
thuyết. Sau khi tốt nghiệp, ngài dạy học trong một năm, rồi sang Thái
Lan để xuất gia.
Ngài thọ giới Tỳ kheo năm hai mươi ba tuổi, vị thầy truyền giới là
ngài Hòa thượng trụ trì chùa Wat Saket. Sau đó, ngài tu học chín
năm trong truyền thống Sơn Lâm (Forest Tradition), dưới sự hướng
dẫn của ngài Thiền Sư Ajahn Chah.
Năm 1983, ngài được thỉnh mời sang Tây Úc, giúp thiết lập tu viện
theo truyền thống Sơn Lâm ở một khu rừng gần thành phố Perth.
Hiện nay, Thiền sư Ajahn Brahmavamso là vị trụ trì Tu viện
Bodhinyana (Giác Minh) và là vị lãnh đạo tinh thần của Hội Phật
Giáo Tây Úc (The Buddhist Society of Western Australia).
NAMO TASSA BHAGAVATO ARAHATO
SAMMASAMBUDDHASA
CUNG KÍNH ĐẢNH LỄ ĐỨC THẾ TÔN,
BẬC ỨNG CÚNG, CHÁNH ĐẲNG GIÁC
PHẦN 1
"Mục tiêu của pháp thiền này là sự tĩnh lặng vi diệu,
sự an định và trong sáng của tâm."
Thiền là đường lối để thực hiện sự buông bỏ. Khi hành thiền, ta
buông bỏ thế giới phức tạp bên ngoài, để có thể vươn đến thế giới an
nhiên bên trong. Trong tất cả các hệ thống huyền học và trong nhiều
truyền thống, hành thiền được biết đến như là con đường đi đến tâm
thanh tịnh và uy lực. Kinh nghiệm về tâm thanh tịnh này, giải thoát
ra khỏi thế giới, rất là vi diệu và hỷ lạc.
Thông thường khi hành thiền, có nhiều việc khó khăn cần phải làm,
nhưng các bạn nên quyết tâm chịu đựng các sự khó nhọc đó, vì
chúng sẽ giúp các bạn thể nghiệm được những trạng thái tuyệt vời,
đầy ý nghĩa. Chúng rất xứng đáng cho những nỗ lực của chúng ta!
Quy luật tự nhiên là nếu không có nỗ lực, ta không thể tiến bộ được.
Dù là cư sĩ hay là tu sĩ, nếu chẳng nỗ lực thì chẳng đi đến đâu cả,
trong việc hành thiền, hoặc trong bất cứ việc gì khác.
Tuy nhiên, chỉ riêng nỗ lực thôi, cũng chưa đủ. Nỗ lực cần phải khéo
léo. Điều này có nghĩa là bạn hướng năng lực vào đúng chỗ, duy trì
năng lực đó cho đến khi công tác được hoàn tất. Nỗ lực khéo léo
chẳng hề gây trở ngại hay quấy rối bạn; ngược lại, nó sẽ tạo ra sự an
tĩnh tuyệt vời của mức thiền định thâm sâu.
Để biết phải hướng nỗ lực đến nơi nào, bạn cần phải hiểu thật rõ ràng
mục tiêu của việc hành thiền. Mục tiêu đó là sự tĩnh lặng vi diệu, sự
an định và trong sáng của tâm. Nếu bạn hiểu được mục tiêu đó, bạn
sẽ thấy rõ ràng nơi mà bạn cần hướng nỗ lực đến, và biết rõ phương
tiện nào dùng để đạt mục tiêu đó.
Nỗ lực đó phải hướng về sự buông bỏ, về sự phát triển một tâm trí
sẵn sàng xả ly. Một trong các lời dạy giản dị nhưng sâu sắc của Đức
Phật là, "Một hành giả có tâm hướng về sự buông bỏ, sẽ dễ dàng đạt
đến Định (Samàdhi, phiên âm là Tam-ma-đề)". Hành giả đó đắc
được, gần như tự động, các trạng thái an lạc nội tâm. Điều mà Thế
Tôn muốn nói là nguyên nhân chính để đắc mức thiền thâm sâu, để
đạt đến các trạng thái mạnh mẽ đó, là sự quyết tâm khước từ, buông
bỏ và xả ly.
Trong giờ thiền, chúng ta không nên phát triển một tâm tư chỉ biết
tích lũy, bám níu vào các sự vật; trái lại, chúng ta cần phải đào luyện
một tâm trí sẵn sàng buông bỏ mọi vật, buông bỏ mọi gánh nặng.
Ngoài giờ thiền, ta gánh vác biết bao nhiêu bổn phận đè trên vai, tựa
như các hành lý nặng trĩu; nhưng trong thời gian hành thiền, ta không
cần có nhiều hành lý như thế. Vậy, trong khi hành thiền, hãy xem ta
có thể trút bỏ bao nhiêu hành lý. Bạn hãy xem sự vật như là gánh
nặng, như khối trọng lượng, đè ép lên bạn. Như thế, bạn mới có thái
độ đúng đắn để từ khước chúng, tự ý vứt bỏ chúng, chẳng thèm
ngoảnh lại. Chính nỗ lực đó, thái độ đó, hành động đó của tâm hướng
về sự buông bỏ, là điều đưa bạn đi sâu vào thiền định. Ngay cả ở các
giai đoạn khởi đầu của hành thiền, hãy xét xem bạn có thể tạo ra
được bao nhiêu năng lực để xả ly, để vứt đi mọi sự vật, và dần dần,
sự buông bỏ sẽ xảy đến. Khi tâm tư buông bỏ mọi sự vật, bạn sẽ cảm
thấy nhẹ nhàng hơn, hiểu biết rõ hơn và tự do hơn. Hành thiền được
như thế, việc buông bỏ sẽ xảy đến theo từng giai đoạn, từng bước
một.
Bạn có thể thực hiện các giai đoạn tiên khởi một cách nhanh chóng,
nếu bạn muốn, nhưng hãy cẩn thận. Đôi khi, nếu bước qua các giai
đoạn đầu quá nhanh, bạn sẽ nhận ra rằng công việc chuẩn bị vẫn
chưa được hoàn tất. Đó cũng giống như dự định xây cất vội vã một
ngôi nhà lầu trên một nền móng còn yếu ớt. Công trình dựng lên quá
nhanh, nhưng rồi nó sụp đổ cũng nhanh! Vậy, bạn nên dành nhiều thì
giờ cho nền móng, và cho "tầng thứ nhất" nữa, làm sao cho nền
móng được vững chắc và kiên cố. Nhờ đó, khi bạn tiến lên các tầng
trên, trạng thái hỷ lạc của thiền định cũng được vững chắc và kiên
cố.
Theo phương cách tôi giảng dạy về hành thiền, tôi thường bắt đầu từ
một giai đoạn rất đơn giản là hãy buông bỏ hết các hành lý của quá
khứ và vị lai. Đôi khi, bạn có thể tưởng đó là việc quá dễ làm, rằng
đó là điều quá sơ đẳng. Tuy nhiên, nếu bạn dồn hết nỗ lực vào việc
đó, không quá nôn nóng chạy cho mau đến các giai đoạn cao hơn của
sự hành thiền, cho đến khi nào bạn đã đạt đúng đắn mục tiêu đầu tiên
là có được sự chú tâm vững bền vào ngay thời khắc hiện tại, thì về
sau này, bạn mới nhận thấy được rằng bạn đã thiết lập xong một nền
móng thật vững chắc, để có thể xây trên đó các tầng cao hơn.
Buông bỏ quá khứ có nghĩa là không nghĩ gì đến công việc làm của
bạn, gia đình bạn, những cam kết của bạn, kỷ niệm, những vui buồn
của thuở thiếu thời, v.v...; bạn buông bỏ tất cả những kinh nghiệm đã
qua, bằng cách chẳng màng quan tâm đến chúng. Bạn trở thành một
kẻ không có tiểu sử, suốt trong thời gian hành thiền. Bạn chẳng nghĩ
ngay cả việc bạn từ đâu đến, sinh ra ở đâu, cha mẹ là ai, hoặc bạn đã
được nuôi dạy và lớn lên đã như thế nào. Tất cả những "lịch sử" đó
được buông bỏ trong khi hành thiền. Bằng cách đó, mọi người tại
thiền đường này đều trở nên bình đẳng với nhau, chỉ là các thiền
sinh. Cũng chẳng quan trọng gì về việc bạn đã hành thiền được bao
nhiêu năm, hoặc bạn là người đã có chút ít kinh nghiệm, hay chỉ mới
chập chững bắt đầu. Nếu bạn buông bỏ được tất cả lịch sử đó, thì
chúng ta đều bình đẳng và tự do. Chúng ta đang tự giải phóng ra khỏi
các mối quan tâm đó, các tri giác, và tư tưởng đã giới hạn chúng ta
và làm cản trở sự an tịnh nảy sanh từ việc buông bỏ. Vậy, cuối cùng
rồi, mỗi trang lịch sử của bạn, bạn đều buông bỏ, ngay cả các biến cố
đã xảy ra cho bạn kể từ khi đến dự khoá thiền ẩn cư này, và ngay cả
những gì vừa mới xảy ra cho bạn vài phút trước đây. Bằng cách ấy,
bạn không khuân vác một gánh nặng nào từ quá khứ đem đến cho
hiện tại. Bất cứ điều gì vừa xảy ra, bạn không còn quan tâm đến và
buông cho trôi hết. Bạn không cho phép quá khứ tác động vào tâm
bạn.
Có thể xem việc buông bỏ để luyện tâm như là một căn phòng nhỏ có
bọc nệm cách âm. Khi một kinh nghiệm nào, một tri giác hay tư
tưởng nào va chạm vào bức tường của căn phòng có vách bọc nệm,
chúng không dội ngược trở lại. Chúng lún sâu vào lớp nệm và ngừng
ngay tại đó. Như thế, bạn không để cho quá khứ gây được tiếng vang
nào trong tâm tư, cả quá khứ của ngày hôm qua và tất cả thời gian
dài trước đó, bởi vì chúng ta đang luyện tâm hướng về sự buông bỏ,
vứt đi tất cả, và trút mọi gánh nặng.
Quan điểm của vài người cho rằng nếu lấy quá khứ ra quán chiếu, họ
có thể rút ra bài học và giải quyết được các vấn đề đã qua. Tuy nhiên,
bạn nên hiểu cho rằng khi quay lại nhìn vào quá khứ, bạn luôn luôn
nhìn nó với cặp lăng kính méo mó. Bất cứ những gì bạn nghĩ nó đã là
như thế, thì thực sự nó lại chẳng giống đúng như thế! Chính vì vậy,
nhiều người đã tranh cãi nhau về những sự việc thực sự vừa xảy ra,
ngay cả những chuyện vừa xảy ra vài phút trước. Các cảnh sát viên
điều tra tai nạn giao thông đều biết rõ điều đó. Mặc dù tai nạn vừa
mới xảy ra chừng nửa giờ mà hai nhân chứng, cả hai đều hoàn toàn
thành thật, lại đưa ra hai bản tường trình khác nhau. Ký ức của ta
không đáng tin cậy. Nếu thấy rằng ký ức không đáng tin cậy, bạn sẽ
không đặt nặng giá trị vào việc hồi tưởng lại quá khứ. Và rồi, bạn sẽ
buông bỏ nó đi. Bạn có thể chôn nó đi, cũng như thể bạn chôn người
chết. Khâm liệm tử thi vào quan tài, và chôn xuống đất hay thiêu hóa
đi, thế là xong, chấm dứt. Đừng bận bịu lần lữa với dĩ vãng. Đừng
tiếp tục khiêng quan tài của những thời khắc đã chết vào trong đầu
bạn! Nếu bạn làm thế, bạn đang đè mình xuống dưới các gánh nặng
mà xem ra, chúng chẳng phải là của bạn. Hãy để quá khứ trôi qua đi,
và rồi, bạn sẽ có đủ khả năng để được tự do ngay trong giờ phút hiện
tại.
Còn về tương lai, các dự phóng, lo sợ, kế hoạch, và kỳ vọng, v.v... –
chúng ta cũng đều nên buông bỏ. Đức Phật có lần nói về tương lai:
"Bất cứ điều gì ta nghĩ sẽ xảy ra như thế, thì nó luôn luôn lại khác
thế"! Bậc hiền trí xem tương lai như mơ hồ, khó biết và khó mà tiên
đoán được. Việc dự đoán về tương lai thường là một điều hoàn toàn
ngu xuẩn, và luôn luôn làm phí mất thì giờ nếu ta nghĩ đến tương lai
trong lúc hành thiền.
Khi làm việc với tâm, bạn cảm thấy nó thật lạ lùng. Nó có thể làm
những việc kỳ diệu chẳng thể ngờ trước được. Điều rất thường thấy
nơi các thiền sinh khi gặp lúc thật khó khăn, tâm không được an
định, họ ngồi đó nghĩ rằng, "Lại nữa rồi! Lại thêm một giờ ngồi thiền
trong sự bực bội!". Mặc dù khi họ bắt đầu tưởng nghĩ như thế, và dự
đoán sẽ lại bị thất bại trong hành thiền, thì vài điều lạ lùng nào đó lại
đột nhiên xảy đến, khiến họ nhập vào thiền định rất ư an hòa.
Gần đây, tôi có nghe nói về một người lần đầu đến tham dự khóa
thiền mười ngày. Sau ngày thứ nhất, thân thể ông ta đau nhức quá,
đến đỗi ông phải xin về nhà. Vị thiền sư bảo, "Hãy ở nán lại thêm
một ngày và tôi cam đoan sự đau nhức sẽ qua đi." Ông ta ở thêm
ngày nữa, đau nhức chẳng hết, nên ông ta lại muốn về nhà. Vị thiền
sư nhắc lại lời nói trước, "Chỉ thêm một ngày nữa thôi, đau nhức sẽ
biến đi". Ông ta nán lại đến ngày thứ ba và cơn đau lại càng tồi tệ.
Trong các ngày còn lại, mỗi ngày ông đều đến gặp vị thiền sư, và
nhăn nhó đòi về nhà, nhưng vị thiền sư vẫn nói, "Chỉ thêm một ngày
nữa, cơn đau sẽ dứt". Vào buổi sáng ngày cuối cùng, ngoài sự chờ
mong của ông, khi ông ta bắt đầu ngồi xuống, thì cơn đau đột nhiên
biến mất, biệt dạng! Cơn đau nhức không tái hiện. Ông có thể ngồi
thiền rất lâu mà không thấy đau nhức chi cả! Trước sự kỳ diệu đó,
ông ta chưng hửng, chẳng biết tâm ông đã làm thế nào mà nó tạo nên
được kết quả quá bất ngờ như thế. Vậy, bạn không thể nào biết rõ
được tương lai đâu! Tương lai thật là kỳ dị, lạ lùng chẳng hiểu nổi,
hoàn toàn vượt khỏi sự dự đoán của bạn. Những kinh nghiệm như thế
đem trí tuệ và can đảm đến cho bạn, để buông bỏ hết mọi tư tưởng về
tương lai cũng như tất cả các kỳ vọng.
Khi đang hành thiền, bạn nghĩ, "Tôi phải ngồi thiền còn thêm bao
nhiêu phút nữa đây? Còn phải chịu đựng như thế này trong bao lâu
nữa?", thì đó chỉ là sự đi lang thang vào tương lai. Cơn đau có thể sẽ
biến đi trong chớp mắt. Giây phút sau có thể là giây phút tự do. Bạn
không thể nào dự đoán được những gì sẽ xảy ra.
Sau khi đã hành thiền qua nhiều buổi, đôi khi bạn nghĩ, chẳng có
buổi thiền nào là tốt đẹp cả. Trong buổi thiền tiếp theo, bạn ngồi
xuống, và mọi sự lại trở nên an định và dễ dàng. Bạn nghĩ: "Chà! Giờ
đây, tôi có thể hành thiền tốt rồi!", nhưng buổi tập kế tiếp, bạn lại
thấy khó khăn, thất vọng, chán nản. Cái gì kỳ quái vậy?
Vị thiền sư đầu tiên của tôi có nói với tôi một điều xem ra như kỳ dị
lắm. Ngài ấy bảo, chẳng hề có cái gì gọi là hành thiền thất bại cả!
Ngài nói đúng. Tất cả những buổi hành thiền mà bạn gọi là "thất bại"
đó, bực bội và chẳng đáp ứng kỳ vọng của bạn, những buổi ấy chính
là những lúc mà bạn đang nỗ lực làm việc nhọc nhằn để có được
"tấm ngân phiếu lãnh lương.
Như thể một người đi làm trọn ngày Thứ Hai, đến chiều chẳng lãnh
được đồng nào. Anh ta nghĩ, "Làm việc như thế này để làm gì, hử?".
Thứ Ba, anh làm cũng trọn ngày và cũng chẳng lãnh được gì. Một
ngày tệ hại nữa. Trọn ngày Thứ Tư, trọn ngày Thứ Năm, cũng vẫn
chẳng thấy có gì đền công cho tất cả việc nặng nhọc đã làm. Bốn
ngày tồi tệ trôi qua liên tiếp. Thế rồi đến ngày Thứ Sáu, anh cũng
làm đúng y công việc như mấy ngày trước, và chiều lại, ông chủ đến
trao cho anh tấm ngân phiếu tiền lương. "Chà! Tại sao mỗi ngày lại
chẳng phải là ngày lãnh lương nhỉ?!"
Tại sao mỗi buổi hành thiền chẳng phải là một "ngày lãnh lương"?
Giờ đây, bạn đã hiểu thí dụ nói trên chưa? Chính do nơi các buổi
thiền khó khăn đó mà bạn tích lũy vốn liếng cho bạn, do chính nơi đó
mà bạn xây dựng các nhân duyên để thành công. Khi nỗ lực để được
an tịnh trong các buổi thiền khó khăn, bạn tích lũy năng lực của bạn,
tạo đà để đưa đến an tịnh về sau này. Và khi đã có đủ các điều kiện
cần thiết, tâm bạn sẽ đi sâu vào các mức thiền định tốt, và cảm thấy
như đấy là "ngày lãnh lương". Do đó, chính trong các buổi hành
thiền khó khăn mà bạn đã thực hiện được phần lớn công tác của bạn.
Trong khóa thiền tích cực mới đây tại thành phố Sydney, một nữ
thiền sinh trong buổi trình pháp đã nói với tôi rằng, cả ngày bà ta
giận tôi lắm, nhưng vì hai lý do khác nhau. Trong những buổi ban
đầu ngồi thiền, bà gặp nhiều khó khăn, và giận tôi sao chẳng chịu
rung chuông để nghỉ xả hơi sớm một chút. Trong các buổi thiền về
sau, bà đi vào trạng thái an tịnh tuyệt vời, và bà lại giận tôi sao lại
rung chuông nghỉ sớm quá. Thật ra, các buổi thiền tập đều kéo dài
thời gian bằng nhau cả, mỗi buổi đúng một giờ. Làm thầy, lãnh việc
rung chuông, chẳng phải là chuyện dễ để làm vừa lòng tất cả các
thiền sinh!
Khi dự đoán về tương lai, bạn thường tự nghĩ "Còn bao nhiêu phút
nữa chuông mới reo?" Đó là nơi mà bạn hành hạ mình, khi mà bạn
cúi xuống vác lên một gánh nặng chẳng phải của bạn. Vậy, xin phải
thật cẩn thận, đừng vác lên vai cái va ly nặng trĩu của việc: "Còn bao
nhiêu phút nữa mới rung chuông?", hoặc, "Ta phải làm gì nữa đây?".
Nếu đó là những gì mà bạn đang nghĩ đến, thì bạn đang lơ là, chẳng
chú tâm đến những gì hiện đang xảy ra. Bạn đâu có hành thiền! Bạn
lạc hướng rồi, và bạn đang mời sự rắc rối đến với bạn đó!
Trong giai đoạn này của sự hành thiền, bạn hãy giữ sự chú tâm ngay
vào phút hiện tại, đến mức mà bạn quên hẳn hôm nay là ngày gì,
hoặc hiện đang mấy giờ, sáng hay trưa, cũng chẳng hay biết gì cả!
Tất cả những gì bạn đang hay biết chính là giây phút hiện tại – ngay
tại lúc này! Bằng cách ấy, bạn đạt được thời biểu tu học tuyệt vời khi
bạn hành thiền ngay trong giây khắc hiện tại, chẳng cần biết bao
nhiêu phút đã trôi qua, hoặc còn ngồi thêm bao nhiêu phút nữa,
chẳng nhớ đến cả hôm nay là ngày gì.
Có một lần, khi còn là một tỳ kheo trẻ ở Thái Lan, tôi quên bẵng
mình đang ở vào năm nào. Thật là tuyệt diệu được sống trong cảnh
giới phi thời gian, một cảnh giới tự tại hơn nhiều so với cảnh giới bị
lệ thuộc thời gian mà chúng ta hiện đang sống. Trong cảnh giới phi
thời gian, bạn thể nghiệm giây phút hiện tại, cũng như các bậc hiền
trí thể nghiệm giây phút đó cả ngàn năm qua. Bao giờ giây phút đó
cũng như thế, chẳng đổi khác. Bạn đang bước vào thực tại hiện tiền.
Thực tại hiện tiền rất huy hoàng và kỳ diệu. Khi buông bỏ hết quá
khứ và tương lai, bạn như thể đã hồi sinh. Bạn ở tại đây, bạn đang
tỉnh thức. Đó là giai đoạn thứ nhất của hành thiền, sự tỉnh thức được
nuôi dưỡng trong giây phút hiện tại. Đạt đến đấy, bạn đã thực hiện
rất nhiều điều. Bạn đã buông bỏ được gánh nặng đầu tiên, vốn cản
trở mức thiền định thâm sâu. Vậy, bạn hãy nỗ lực thật nhiều thêm, để
đạt đến giai đoạn thứ nhất này, khiến nó trở nên mạnh mẽ, chắc chắn
và vững vàng. Sau đó, chúng ta sẽ đưa sự tỉnh thức trong phút giây
hiện tại lên giai đoạn kế tiếp tinh tế hơn trong việc hành thiền – sự
giác niệm tĩnh lặng về phút giây hiện tại.
PHẦN 2
"Sự tĩnh lặng làm khởi sinh lên trí tuệ và trong sáng
nhiều hơn gấp bội sự suy nghĩ".
Trong Phần 1, tôi đã phác họa mục tiêu của hành thiền, tức là sự tĩnh
lặng vi diệu, sự an định và trong sáng của tâm, làm thai nghén cho
các minh triết thật thâm sâu. Kế đó, tôi có nêu rõ đường lối chủ yếu,
như một sợi tơ bền chắc luồn suốt qua sự hành thiền, là sự buông bỏ
tất cả những gánh nặng về vật chất và tinh thần. Sau cùng, trong
Phần 1, tôi đã mô tả tỉ mỉ sự thực tập đưa đến điều mà tôi gọi là giai
đoạn thứ nhất của sự hành thiền, và giai đoạn đó xem như đã đạt đến,
khi nào hành giả đã an trú thoải mái vào thời khắc hiện tại, trong một
khoảng thời gian dài và chẳng đứt đoạn. Tôi đã nhấn mạnh rằng,
"Thực tại hiện tiền rất huy hoàng và kỳ diệu. ... Đạt đến đấy, bạn đã
thực hiện rất nhiều điều. Bạn đã buông bỏ được gánh nặng đầu tiên,
vốn đã cản trở mức thiền định thâm sâu." Nhưng dù đã thành công
được nhiều như thế, thiền sinh cần phải tiến xa thêm vào sự tĩnh lặng
đẹp đẽ và chân thật hơn của tâm thức.
Ở đây, chúng ta cần phải hiểu rõ về sự khác biệt giữa sự giác niệm
tĩnh lặng về thời khắc hiện tại và sự suy tư về trạng thái đó. Thí dụ
như xem một trận đấu quần vợt trên màn ảnh truyền hình. Khi đang
xem trận đấu ấy, rất có thể bạn để ý rằng, thật ra, có hai trận đấu
cùng xảy ra một lượt – một trận bạn đang nhìn thấy trên màn ảnh, và
một trận bạn đang nghe bình luận viên mô tả. Thật vậy, nếu Úc-đạilợi
đấu với Tân-tây-lan, giọng điệu lời bình luận của xướng ngôn
viên người Úc hoặc của xướng ngôn viên người Tân-tây-lan, sẽ khác
nhau nhiều so với trận đấu đang thật sự diễn ra. Bình luận thường
hay thiên vị. Trong thí dụ này, việc nhìn màn ảnh mà không có lời
bình luận, tương đương với sự giác niệm tĩnh lặng trong thiền; còn
để tâm chú ý vào lời bình luận trong khi đang xem trận đấu, tương
đương với việc suy tư về sự giác niệm tĩnh lặng đó. Bạn nên biết
rằng, bạn sẽ gần Chân Lý hơn, khi bạn chỉ quan sát mà không bình
luận, khi bạn chỉ thể nghiệm đơn thuần một sự giác niệm tĩnh lặng về
thời khắc hiện tại.
Đôi khi, qua sự bình luận trong nội tâm, ta cứ tưởng rằng ta biết được
chuyện thế gian. Thật ra, lời bình luận đó chẳng biết gì đến thế giới
bên ngoài! Các lời nói trong nội tâm đã dệt nên những ảo tưởng mê
lầm, tạo ra khổ não. Chính nó khiến ta sân hận với những ai mà ta
xem như kẻ thù, và tạo mối luyến ái nguy hiểm với những ai mà ta
thương mến. Lời nói nội tâm tạo ra tất cả mọi vấn đề khó khăn cho
cuộc đời. Nó tạo ra sợ hãi và mặc cảm tội lỗi. Nó tạo ra lo âu và chán
chường. Nó xây dựng nên các ảo tưởng, cũng như các bình luận viên
khéo léo trên màn ảnh truyền hình, đã dùng thủ đoạn lèo lái thính giả
phải tức giận, hay buồn bã, nhỏ lệ nữa. Vậy, nếu bạn muốn tìm Chân
Lý, bạn phải quý trọng sự giác niệm tĩnh lặng, và trong khi hành
thiền, hãy xem sự giác niệm đó quan trọng hơn bất cứ suy tư nào
khác.
Cũng chỉ vì thiên hạ đã đặt nặng giá trị thái quá nơi các tư tưởng của
họ, mới khiến cho sự giác niệm tĩnh lặng vướng phải một chướng
ngại trầm trọng. Hãy cẩn thận gạt bỏ tầm quan trọng mà ta đặt vào tư
tưởng của mình, và hãy nhận thức giá trị chân thực của giác niệm
tĩnh lặng, đó chính là sự minh triết để giúp cho giai đoạn thứ hai – sự
giác niệm tĩnh lặng về thời khắc hiện tại – có thể thành tựu được.
Một trong những cách hay nhất để khuất phục được các lời bình luận
trong nội tâm, là phát triển sự giác niệm thật tế nhị vào thời khắc
hiện tại, tế nhị đến mức bạn phải theo dõi mỗi phút giây thật cẩn
thận, và không còn có thì giờ để kịp bình luận về điều vừa xảy ra.
Một tư tưởng thường là ý kiến về một việc vừa mới xảy ra, thí dụ
như, "Điều đó đã tốt đấy!" hoặc "Điều đó đã xấu đấy!" "Cái gì đã
xảy ra đấy?" Tất cả lời bình luận đó đều liên quan đến một kinh
nghiệm vừa mới trải qua. Khi ghi nhận, bình luận về một kinh
nghiệm vừa mới trải qua, bạn không thể đặt sự chú ý vào kinh
nghiệm vừa mới đến. Bạn tiếp các vị khách cũ đã đến trước, và bỏ lơ
các vị khách vừa mới đến, ngay bây giờ!
Hãy tưởng tượng tâm bạn như là vị chủ trong bữa tiệc, đang đứng
đón khách trước cửa. Nếu một vị khách bước vào, bạn chào và bắt
đầu nói với ông ta hết chuyện này đến chuyện nọ, thì bạn đâu có làm
tròn phận sự là chú ý tới các vị khách khác vừa bước qua cửa. Bởi vì
mỗi lúc, khách khứa cứ lần lượt đến, bạn chỉ có thể chào người này
xong, liền quay sang chào người kế tiếp. Bạn không có đủ thì giờ để
khơi chuyện, dù là chuyện ngắn ngủi nhất, với một người nào, vì
điều đó có nghĩa là bạn sẽ bỏ sót vị khách mới đến ngay sau đó.
Trong hành thiền, tất cả các kinh nghiệm đều đi vào nội tâm qua cửa
của các giác quan, cái này theo sau cái kia. Nếu bạn tiếp đón một
kinh nghiệm nào đó với sự tỉnh thức và rồi bắt chuyện (bình luận)
với vị khách (kinh nghiệm) đó, thì bạn sẽ bỏ lỡ mất cái kinh nghiệm
vừa mới đến tiếp theo sau.
Nếu bạn hoàn toàn sống trong từng giây khắc với mỗi kinh nghiệm,
với mỗi vị khách đến viếng tâm bạn, bạn không còn chỗ nào dành
cho các lời bình luận trong nội tâm nữa. Bạn không thể nào trò
chuyện với chính bạn, bởi vì bạn hoàn toàn bận bịu với sự đón tiếp
một cách tỉnh thức tất cả những gì vừa đến với tâm bạn. Đó là sự tỉnh
thức tinh tế vào thời khắc hiện tại, tinh tế đến mức nó trở thành một
sự giác niệm tĩnh lặng về hiện tại trong từng giây phút.
Bạn khám phá ra, trong việc phát triển mức tinh tế của sự im lặng nội
tâm, đó cũng tựa như vứt bỏ một gánh nặng to lớn khác nữa. Cũng
giống như bạn đã luôn luôn vác cái ba lô trên vai từ bốn mươi, năm
mươi năm nay, và trong thời gian dài đó, bạn đã lê lết qua nhiều dặm
đường. Giờ đây, bạn thấy có đủ can đảm và sáng suốt để chịu cởi cái
ba lô ra và đặt nó xuống đất trong một lúc. Bạn cảm thấy thoải mái
vô cùng, thật là nhẹ nhõm và thật là tự do, bởi vì từ nay, bạn không
còn bị đè trĩu dưới cái ba lô nặng nề của lời lải nhải trong nội tâm
nữa.
Một cách khác để phát triển sự giác niệm tĩnh lặng là ghi nhận
khoảng cách giữa các tư tưởng, giữa các lời thì thầm trong nội tâm.
Bạn cẩn thận theo dõi, với sự tỉnh thức thật bén nhạy, khi một tư
tưởng này vừa chấm dứt và trước khi một tư tưởng kia khởi lên –
Đấy! Khoảng giữa đó chính là giác niệm tĩnh lặng! Lúc đầu, có thể
khoảng cách đó chỉ tạm thời trong một chốc lát, nhưng một khi bạn
đã nhận chân được sự tĩnh lặng ngắn ngủi phớt qua đó, bạn sẽ quen
dần với nó; và khi bạn đã quen với nó rồi, sự tĩnh lặng ấy sẽ kéo dài
thêm ra. Bạn bắt đầu vui hưởng sự tĩnh lặng, rốt cuộc rồi bạn đã tìm
nhận ra được nó, và cũng vì thế, nó sẽ nẩy nở thêm lên. Nhưng hãy
nhớ điều này: sự tĩnh lặng ấy rất thẹn thùng. Nếu sự tĩnh lặng mà
nghe bạn nói đến nó, nó liền biến mất lập tức!
Thật là tuyệt diệu cho mỗi người chúng ta, nếu ta có thể buông bỏ
được các lời thì thầm trong nội tâm, và an trú vào sự giác niệm tĩnh
lặng về phút giây hiện tại, đủ lâu, để nhận thức ra được nó mang lại
niềm hỷ lạc đến mức nào. Sự tĩnh lặng sẽ tạo khởi minh triết và trí
tuệ, nhiều hơn là sự suy tư. Khi ta nhận thức được rằng sự tĩnh lặng
nội tâm rất thú vị và có giá trị, thì nó sẽ trở nên quan trọng và hấp
dẫn đối với ta. Sự tĩnh lặng trở thành nơi mà tâm hướng về đó. Tâm
liên tục tìm đến sự tĩnh lặng, cho đến mức mà nó chỉ suy nghĩ khi
thực sự cần thiết, chỉ khi nào việc đó có ý nghĩa. Bởi vì, ở giai đoạn
này, bạn đã nhận thức rằng, hầu hết các sự suy nghĩ của chúng ta đều
chẳng có nghĩa lý chi cả, chẳng đưa ta tới đâu cả, chỉ làm cho ta đau
đầu; và từ đó, bạn sẽ hân hoan, dễ dàng dành thêm nhiều thì giờ để
sống trong nội tâm an tịnh.
Do đó, giai đoạn thứ nhì của pháp hành thiền này, là "sự giác niệm
tĩnh lặng về thời khắc hiện tại". Bạn có thể dùng phần lớn thì giờ của
bạn để phát triển hai giai đoạn trên; bởi vì nếu bạn đạt đến mức độ
như thế, bạn đã vượt qua một đoạn đường dài trong việc hành thiền.
Trong sự giác niệm tĩnh lặng của "Ngay Bây Giờ", bạn sẽ thể nghiệm
được rất nhiều an tịnh, hoan hỷ, và theo sau là trí tuệ.
Nếu bạn muốn đi xa hơn thế nữa, thay vì chỉ chú tâm thầm lặng về
bất cứ những gì khởi đến trong tâm, bạn chọn sự chú tâm thầm lặng
vào chỉ mỗi một đối tượng thôi. Mỗi một đối tượng đó có thể là thể
nghiệm về hơi thở, về lòng Từ (mettà), về một vòng tròn có màu sắc
hiển thị trong tâm (kasina, biến xứ), hay là những đối tượng khác, ít
phổ thông hơn, làm đề mục của sự giác niệm. Ngay đây, tôi sẽ mô tả
sự giác niệm tĩnh lặng trong thời khắc hiện tại về hơi thở, tức là
sang giai đoạn thứ ba của pháp hành thiền.
Chú tâm vào mỗi một đối tượng có nghĩa là buông bỏ sự đa dạng
phiền toái để đi tới đối cực của nó là sự hợp nhất. Trong khi tâm bắt
đầu hợp nhất lại, duy trì chú ý vào một đối tượng thôi, thì kinh
nghiệm về an tịnh, hỷ lạc và năng lực sẽ gia tăng lên một cách rõ rệt.
Bạn sẽ thấy rằng, ngay tại đây, sự đa dạng của ý thức cùng lúc phải
chăm lo cho cả sáu giác quan khác nhau – tựa như có sáu cái điện
thoại trên bàn cùng reo lên một lượt – là một gánh nặng to lớn.
Buông bỏ tính đa dạng – chỉ đặt trên bàn một điện thoại thôi, một
đường dây cá nhân riêng biệt – quả thật là một sự nhẹ nhõm và sẽ
đưa đến an lạc. Thấu hiểu rằng tính đa dạng chỉ là một gánh nặng, là
một điều tối cần thiết để tâm có thể an trụ vào hơi thở.
Nếu đã phát triển được sự giác niệm tĩnh lặng vào thời khắc hiện tại
trong một thời gian dài rồi, bạn sẽ thấy rất dễ dàng khi muốn chuyển
sự giác niệm tĩnh lặng đó sang chú tâm vào hơi thở, và có thể theo
dõi hơi thở từng giây, từng phút, không bị gián đoạn. Đó là vì hai trở
ngại to lớn của pháp hành thiền về hơi thở đã được khuất phục xong.
Trở ngại thứ nhất là tâm trí thường có khuynh hướng cứ hay đi lang
thang, trở lại với quá khứ hoặc hướng về tương lai. Trở ngại thứ hai
là các lời thì thầm trong tâm. Chính vì vậy mà tôi đã giảng rằng hai
giai đoạn tiên khởi của sự giác niệm về thời khắc hiện tại và giác
niệm tĩnh lặng về thời khắc hiện tại, được xem như là sự chuẩn bị
vững chắc cho mức thiền thâm sâu hơn về hơi thở.
Tôi thường thấy nhiều thiền sinh hay bắt đầu hành thiền về hơi thở
khi tâm trí họ còn nhảy nhót giữa dĩ vãng và tương lai, và khi giác
niệm của họ bị nhận chìm bởi các lời bình luận thì thầm trong tâm.
Thiếu sự chuẩn bị cần thiết, họ thấy hành thiền về hơi thở rất khó
khăn, khó thực hành, và rồi họ bỏ cuộc trong sự bực bội. Họ bỏ cuộc
vì họ không bắt đầu đúng chỗ. Họ không làm xong các công tác
chuẩn bị, trước khi lấy hơi thở làm tiêu điểm cho sự chú tâm. Vì thế,
khi tâm đã được chuẩn bị chu đáo bằng cách hoàn tất cả hai giai đoạn
tiên khởi, bạn sẽ thấy khi quay sang với hơi thở, bạn có thể nuôi
dưỡng sự chú tâm vào hơi thở một cách dễ dàng. Nếu thấy còn khó
khăn để giữ bền sự chú tâm vào hơi thở, thì đó là dấu hiệu bạn đã
bước quá vội qua hai giai đoạn chuẩn bị. Bạn hãy trở lại thực tập
thuần thục hai giai đoạn tiên khởi đó đi! Sự kiên nhẫn đầy cẩn thận là
con đường tiến nhanh nhất.
Khi chú tâm vào hơi thở, bạn quan sát hơi thở hiện đang xảy ra vào
ngay lúc này. Bạn cảm nhận "cái cho bạn biết hơi thở đang làm gì",
nó đang ra, hoặc đang vào, hoặc đang ở giữa chừng. Vài vị thiền sư
dạy nên canh chừng hơi thở tại chót mũi, vài vị khác bảo theo dõi ở
bụng, và vài vị khác nữa bảo phải theo nó di động đến chỗ này, rồi
đến chỗ kia. Qua kinh nghiệm bản thân, tôi thấy theo dõi hơi thở
ngay tại chỗ nào cũng được. Thật ra, tốt nhất là chẳng cần định một
chỗ nào cho hơi thở cả! Nếu bạn đặt hơi thở ở chót mũi, đó là giác
niệm về chót mũi, không phải giác niệm về hơi thở; và nếu bạn đặt
hơi thở ở bụng, đó lại là giác niệm về bụng. Ngay bây giờ, chỉ cần tự
hỏi câu này: "Tôi đang thở vào hay là đang thở ra?" Làm sao bạn hay
biết được điều đó? Đấy! Kinh nghiệm ấy bảo cho bạn biết hơi thở
hiện đang làm gì, đấy chính là điều mà bạn cần đặt tiêu điểm của sự
chú tâm vào quán niệm hơi thở. Không cần quan tâm về kinh nghiệm
đã xảy ra tại chỗ nào; chỉ cần chú tâm đến chính kinh nghiệm đó mà
thôi.
Một trở ngại thông thường trong giai đoạn này là khuynh hướng
muốn kiểm soát hơi thở, và điều đó khiến cho hơi thở trở nên thiếu
thoải mái. Để vượt qua trở ngại đó, hãy tưởng tượng rằng bạn chỉ là
một hành khách đang ngồi nhìn hơi thở qua khung kính cửa xe. Bạn
chẳng phải là tài xế đang lái, cũng chẳng phải là tài xế ngồi ở ghế
sau. Vậy, hãy ngưng việc ra lệnh, cứ buông thỏng và hưởng lấy thú
vị của chuyến đi xe. Hãy để cho hơi thở tự nó làm công việc thở của
nó, trong khi bạn cứ giản dị quan sát mà chẳng hề can thiệp vào.
Khi biết hơi thở đang vào và hơi thở đang ra, chừng một trăm hơi thở
liên tiếp, chẳng sót hơi nào, bạn đã thành tựu được điều mà tôi gọi là
giai đoạn thứ ba của pháp thiền, tức là "sự chú tâm vững bền vào hơi
thở". Đây lại càng an tịnh và hỷ lạc hơn giai đoạn trước. Để đi sâu
vào hơn nữa, giờ đây, bạn nhắm đến sự hoàn toàn chú tâm vững
bền vào hơi thở.
Giai đoạn thứ tư này, "hoàn toàn chú tâm vững bền vào hơi thở",
diễn ra khi bạn chú tâm bám sát theo mỗi phút giây của hơi thở. Bạn
biết hơi thở vào, ngay ở thời điểm đầu tiên, đúng lúc mà cảm giác về
hơi thở đó vừa khởi lên. Rồi bạn quan sát các cảm giác ấy từ từ phát
triển qua trọn tiến trình của một hơi thở vào, chẳng bỏ sót một lúc
nào khi hơi thở đang đi vào. Khi hơi thở vào chấm dứt, bạn biết ngay
lúc đó, bạn thấy trong tâm cái cử động chót của hơi thở vào đó. Kế
đến, bạn thấy, tiếp theo, có sự ngưng nghỉ một lúc ngắn giữa các hơi
thở, và nhiều chặp ngừng nghỉ nữa cho đến khi hơi thở ra bắt đầu
khởi lên. Bạn thấy rõ lúc mới bắt đầu của hơi thở ra và các cảm giác
khởi lên tiếp theo sau, theo tiến trình hơi thở ra, cho đến khi hơi thở
đó biến mất lúc xong phận sự. Tất cả những sự việc đó đều được làm
trong im lặng và ngay trong thời khắc hiện tại.
Bạn thể nghiệm mỗi phần của mỗi hơi thở vào và mỗi hơi thở ra,
một cách liên tục, trong nhiều trăm hơi thở cùng một loạt. Vì thế, giai
đoạn này được gọi là "hoàn toàn chú tâm vững bền vào hơi thở".
Bạn không thể đạt đến giai đoạn này bằng sự ép buộc, bằng sự nắm
bắt hay bám níu. Bạn chỉ có thể đạt được mức độ an định đó bằng
cách buông bỏ tất cả mọi sự vật trong toàn thể vũ trụ này, ngoại trừ
cái kinh nghiệm tức thời về hơi thở hiện đang xảy ra trong thầm lặng.
Không phải là "Bạn" đạt đến giai đoạn này, mà chính là Tâm mới đạt
đến đấy. Tâm, tự nó, làm nhiệm vụ của nó. Tâm nhận chân thấy giai
đoạn này là nơi trú nhập rất an tịnh và dễ chịu, chỉ vì nó được "ở một
mình" với hơi thở. Đây là nơi mà "tác nhân" (người làm, người tạo
tác), cái thành phần quan trọng trong tự ngã con người, bắt đầu biến
đi mất dạng.
Trong giai đoạn hành thiền này, bạn để ý thấy rằng sự tiến triển diễn
ra hầu như chẳng cần nỗ lực. Bạn chỉ cần đứng tránh sang một bên,
buông bỏ, và cẩn thận quan sát tất cả những gì đang xảy ra. Nếu bạn
để yên cho nó, tâm sẽ tự động hướng về sự giản dị, an hòa và sảng
khoái của việc được "hòa làm một" với hơi thở trong mỗi một thời
khắc. Đó là sự hợp nhất của tâm, hợp nhất trong thời khắc, hợp nhất
trong an định.
Giai đoạn thứ tư được tôi gọi là "tấm ván lấy đà để nhảy"
(springboard) của sự hành thiền, bởi vì từ nơi đây, bạn có thể lấy đà
để nhảy sâu vào các trạng thái hỷ lạc. Khi bạn chỉ đơn thuần duy trì
sự hợp nhất của tâm thức, bằng cách không xen vào hơi thở, hơi thở
sẽ bắt đầu biến mất. Hơi thở xem ra dường như phai mờ dần dần,
trong khi tâm vẫn tập trung vào điểm chính của sự thể nghiệm về hơi
thở, tức là sự an tịnh kỳ diệu, tự do và hạnh phúc.
Đến giai đoạn này, tôi dùng từ "hơi thở mỹ lệ" (hơi thở tuyệt đẹp!).
Ở tại đây, tâm nhận ra cái hơi thở an hòa đó thật là vô cùng mỹ lệ.
Bạn nhận thức liên tục cái hơi thở mỹ lệ đó, từng lúc, từng lúc, chẳng
gián đoạn, trong chuỗi các kinh nghiệm. Bạn giác niệm vẻ mỹ lệ của
hơi thở, chẳng cần chút nỗ lực nào, và trong một thời gian rất dài lâu.
Giờ đây, bạn để hơi thở tự nó biến mất, và những gì còn lại chỉ là "vẻ
mỹ lệ". Cái vẻ mỹ lệ phi thể chất đó trở nên đối tượng duy nhất của
tâm. Giờ đây, tâm lấy chính tâm làm đối tượng của mình. Hiện giờ,
bạn chẳng còn hay biết gì đến hơi thở, thân thể, tư tưởng, âm thanh,
hoặc cả thế giới bên ngoài. Những gì bạn đang hay biết là vẻ mỹ lệ,
sự an hòa, hạnh phúc, ánh sáng, hoặc bất cứ những gì mà tri giác của
bạn sẽ đặt tên. Bạn đang thể nghiệm chỉ riêng về vẻ mỹ lệ, một vẻ
mỹ lệ trừu tượng, một cách liên tục, không cần cố gắng. Từ lâu rồi,
bạn đã buông bỏ sự thủ thỉ rù rì bên trong, buông bỏ mọi sự mô tả và
đánh giá. Ngay đây, tâm rất an định, bất động đến mức bạn chẳng
còn có thể thốt lên lời nào.
Bạn đang thể nghiệm sự đơm hoa kết trái đầu tiên của hạnh phúc
trong tâm. Hạnh phúc đó sẽ nẩy nở, lớn lên và trở nên thật vững chắc
và mạnh mẽ. Như thế, bạn bước vào các trạng thái thiền được gọi là
Thiền-na (Jhàna). Nhưng đó là Phần 3 của tập sách nhỏ này.
PHẦN 3
"Tuyệt đối đừng làm gì, và cứ xem hơi thở êm dịu, đẹp
đẽ và phi thời gian xảy ra như thế nào."
Phần 1 và 2 mô tả bốn giai đoạn đầu của sự hành thiền. Đó là:
1) Chú tâm vững bền vào thời khắc hiện tại.
2) Giác niệm tĩnh lặng vào thời khắc hiện tại.
3) Giác niệm tĩnh lặng trong hiện tại về hơi thở
4) Hoàn toàn chú tâm vững bền vào hơi thở.
Mỗi giai đoạn cần được tập luyện và phát triển đầy đủ, trước khi
bước sang giai đoạn kế tiếp. Khi một người quá vội vàng đi lướt qua
các "giai đoạn xả ly" này, người ấy không thể nào đạt đến các giai
đoạn cao hơn. Cũng tựa như xây cất ngôi nhà lầu cao với một nền
móng không đủ vững chắc. Tầng thứ nhất được xây quá nhanh, và
tầng thứ hai, thứ ba cũng vậy. Đến khi xây thêm tầng thứ tư, cả kiến
trúc bắt đầu thấy lung lay. Khi gắng xây thêm tầng thứ năm, cả ngôi
nhà đổ sập xuống. Vậy, xin hãy dành thật nhiều thì giờ cho bốn giai
đoạn tiên khởi, làm cho chúng thật kiên cố và vững chắc, trước khi
bước sang giai đoạn thứ năm. Bạn phải có đủ khả năng để duy trì giai
đoạn thứ tư, "hoàn toàn chú tâm vững bền vào hơi thở", theo dõi mỗi
lúc của hơi thở, không gián đoạn lần nào, trong hai hay ba trăm hơi
thở luôn một loạt, một cách thật thoải mái. Tôi không nói là phải đếm
hơi thở trong giai đoạn này, nhưng tôi chỉ đưa ra một ước tính về
khoảng thời gian mà thiền sinh cần an trụ trong giai đoạn thứ tư,
trước khi tiến xa hơn. Trong việc hành thiền, kiên nhẫn bao giờ cũng
là phương cách nhanh nhất!
Giai đoạn thứ năm được gọi là "hoàn toàn chú tâm vững bền vào
hơi thở tuyệt đẹp". Thông thường, giai đoạn thứ năm trôi chảy một
cách tự nhiên, thông suốt, từ giai đoạn trước. Khi thiền sinh hoàn
toàn chú tâm thể nghiệm hơi thở, một cách liên tục thoải mái và
không có điều chi làm gián đoạn dòng chảy giác niệm, hơi thở sẽ trở
nên êm dịu. Từ dạng thô kệch, tầm thường, hơi thở biến thành êm
dịu, an hòa và "tuyệt đẹp". Tâm nhận ra ngay hơi thở tuyệt đẹp đó và
thích thú với nó. Tâm thể nghiệm được một sự hài lòng sâu sắc. Tâm
hoan hỷ, chỉ ở đấy để quan sát hơi thở tuyệt đẹp này. Tâm không cần
phải bị thúc dục hay ép buộc. Nó tự ý an trụ nơi hơi thở tuyệt đẹp.
"Bạn" chẳng cần làm gì cả. Nếu bạn cố thử làm chút gì vào giai đoạn
này, bạn sẽ khuấy rối toàn bộ tiến trình, sự đẹp đẽ sẽ bị mất ngay;
cũng tựa như trong trò chơi "con rắn và cái thang", bạn lọt vào ô
vuông "đầu rắn" thì bạn phải trở ngược lại nhiều ô vuông ở phía sau.
"Tác nhân" (người làm, người tạo tác) cần phải biến mất từ giai
đoạn hành thiền này trở về sau, chỉ còn "Tri nhân" (người nhận
biết) đang quán sát một cách thụ động.
Có một xảo thuật tốt để giúp ta đạt đến giai đoạn này, là phá vỡ sự
im lặng nội tại, chỉ một lần thôi, bằng cách nhẹ nhàng tự nhủ: "Hãy
êm dịu!". Chỉ thế thôi! Ở giai đoạn này của sự hành thiền, tâm
thường rất nhạy cảm, đến nỗi chỉ cần nhắc nhở nhẹ nhàng như thế,
cũng đủ khiến cho tâm tuân theo chỉ thị một cách ngoan ngoãn. Hơi
thở dịu lại, và hơi thở "tuyệt đẹp" liền khởi lên.
Khi bạn đang thụ động quán sát hơi thở tuyệt đẹp trong thời khắc
này, sự nhận biết về hơi thở vào, hơi thở ra, hoặc hơi thở ở đoạn đầu,
đoạn giữa, hay đoạn cuối, kể như đã được cho phép biến mất. Những
gì đang được hay biết chỉ là sự thể nghiệm về hơi thở tuyệt đẹp đang
diễn ra đây. Tâm không còn chú ý đến việc hơi thở đang ở trong giai
đoạn nào của chu trình hô hấp, hoặc đang xảy ra tại nơi nào trong cơ
thể. Ngay đây, ta đang đơn giản hóa đề mục của sự hành thiền, tức là
sự thể nghiệm về hơi thở trong hiện tại, lột bỏ hết tất cả các chi tiết
không cần thiết, vượt qua tính nhị nguyên của "vào" và "ra", và chỉ
giác niệm về hơi thở tuyệt đẹp, đang xảy ra rất êm dịu và liên tục,
hầu như chẳng thay đổi chút nào.
Tuyệt đối đừng làm gì cả, mà chỉ ngắm nhìn hơi thở êm dịu, đẹp đẽ
và phi thời gian xảy ra như thế nào. Hãy xem bạn có thể để cho nó
được êm dịu đến mức nào. Hãy để thì giờ ra mà thưởng thức vị ngọt
của hơi thở tuyệt đẹp, càng êm dịu, ngọt ngào hơn bao giờ hết.
Giờ đây, hơi thở sẽ biến mất, chẳng phải khi "bạn" muốn nó phải
như thế, mà khi nó đã có đủ mức êm dịu, và chỉ lưu lại sự "đẹp đẽ"
thôi. Một thí dụ trong văn chương Anh có thể giúp ta hiểu rõ thêm.
Trong quyển Alice in Wonderland (Alice ở xứ sở diệu kỳ) của Lewis
Carroll, cô Alice và Hồng Hậu nhìn thấy một ảo ảnh giống hình chú
mèo Cheshire, đang mỉm cười, hiện lên trên nền trời. Khi họ quan
sát, thì trước hết, đuôi mèo biến mất, kế đó đến các móng nhọn, rồi
tiếp theo là các phần còn lại của bốn chân. Chẳng mấy chốc, thân
hình mèo cũng hoàn toàn mất dạng, chỉ sót lại đầu mèo thôi, mà vẫn
nở nụ cười. Rồi thì cả cái đầu cũng mờ hẳn, từ đôi tai cho đến chòm
râu vểnh ngược vào trong, và sau cùng, cả đầu chú mèo cũng tiêu tan
hết – ngoại trừ nụ cười vẫn còn lưu lại trên nền trời! Đó là một nụ
cười chẳng thấy có đôi môi để nở thành nụ, tuy vậy, vẫn là một nụ
cười còn trông thấy được. Đây là một sự tương đồng rất chính xác
với tiến trình xả ly xảy ra ở vào giai đoạn này của sự hành thiền. Chú
mèo với nụ cười trên gương mặt tượng trưng cho hơi thở tuyệt đẹp.
Chú mèo biến mất tượng trưng cho hơi thở mất dạng. Nụ cười phi
thể chất mà vẫn còn thấy được trên nền trời, tượng trưng cho đối
tượng tâm thuần tịnh, "vẻ đẹp" có thể thấy rõ ràng trong tâm.
Đối tượng tâm thức thuần tịnh đó được gọi là một định tướng –
nimitta. Chữ Pàli "nimitta" có nghĩa là một dấu hiệu; ở đây, là một
dấu hiệu trong tâm. Đây là một đối tượng có thật trong tâm (citta), và
khi xuất hiện lần đầu, nó rất lạ lùng. Từ trước, ta chưa hề có kinh
nghiệm về một đối tượng nào như vậy. Tuy nhiên, hoạt động của tâm
mà ta gọi là "sự tri giác" – hay tưởng uẩn, đã tìm tòi, trong ngân
hàng ký ức của kinh nghiệm sống, một chút gì tương tự để cống hiến
một sự mô tả cho tâm. Đối với nhiều thiền sinh, cái "vẻ đẹp phi thể
chất" đó, cái niềm vui tinh thần đó, được cảm nhận như một ánh sáng
huy hoàng. Nó thực sự chẳng phải là ánh sáng. Đôi mắt được nhắm
kín và nhãn thức cũng đã đóng lại từ lâu rồi. Đó chính là tâm thức lần
đầu tiên được thoát khỏi cảnh giới của năm giác quan. Đó cũng tựa
như vầng trăng tròn – tượng trưng cho cái tâm rạng chiếu – vừa ló ra
khỏi một đám mây – tượng trưng cho cảnh giới của năm giác quan.
Đó chính là tâm tỏ rạng, không phải là ánh sáng, nhưng với đa số
chúng ta thì nó hiện ra như một ánh sáng, nó được cảm nhận như ánh
sáng, bởi vì sự mô tả chưa hoàn hảo này là sự mô tả khá nhất mà tri
giác có thể cung hiến được.
Đối với các thiền sinh khác, để mô tả sự xuất hiện đầu tiên của tâm
thức, tri giác thường chọn dạng các cảm giác thể chất, ví dụ như một
sự an tịnh thâm trầm hay là sự xuất thần đê mê (ectasy). Lại nữa,
thân thức (sự hay biết và cảm nhận được lạc thú hay đau khổ, nóng
hay lạnh, v.v...) được khép kín từ lâu, và vì thế, đây chẳng phải là
một cảm giác vật chất. Nó chỉ được "cảm nhận" giống như những lạc
thú. Vài người khác lại thấy một ánh sáng trắng, hoặc một ngôi sao
vàng, hoặc một viên bích ngọc, v.v...; điều quan trọng nên biết là họ
đang mô tả cùng chung một hiện tượng. Họ đều thể nghiệm chung
một đối tượng tâm thức thuần tịnh, và các chi tiết không giống nhau
đó đã được sự tri giác khác biệt của từng người đem thêm vào.
Bạn có thể nhận chân ra một định tướng (nimitta) do sáu đặc điểm:
Nó chỉ hiện ra sau giai đoạn thứ năm của hành thiền, sau khi thiền
sinh an trú với hơi thở tuyệt đẹp trong một thời gian dài;
1) Nó hiện ra khi hơi thở biến mất;
2) Nó chỉ đến khi năm giác quan bên ngoài về hình sắc, âm
thanh, mùi, vị và xúc chạm hoàn toàn vắng mặt;
3) Nó chỉ khởi hiện trong một tâm thức tĩnh lặng, khi các tư
tưởng mô tả (lời nói nội tâm) hoàn toàn vắng bặt;
4) Nó rất lạ lùng, nhưng hấp dẫn mạnh mẽ; và
5) Nó là một đối tượng đơn giản và tuyệt đẹp.
Tôi nêu các đặc điểm đó để bạn có thể phân biệt được định tướng
(nimitta) thực sự với những "tướng" do tưởng tượng mà có.
Giai đoạn thứ sáu được gọi là "thể nghiệm định tướng mỹ lệ".
Chúng ta đạt đến giai đoạn này khi ta buông bỏ được thân thể, tư
tưởng, và năm giác quan (kể cả sự giác niệm về hơi thở), một cách
thật hoàn toàn, cho đến mức chỉ còn riêng có định tướng mà thôi.
Đôi khi, khi định tướng khởi lên lần đầu, nó có vẻ còn lờ mờ. Trong
trường hợp này, ta nên quay lại ngay với giai đoạn trước của sự hành
thiền, tức là giai đoạn của sự giác niệm tĩnh lặng liên tục về hơi thở
tuyệt đẹp; vì ta đã đi đến định tướng quá sớm. Đôi khi, định tướng tỏ
rạng, nhưng lại chẳng vững, chớp tắt giống như tia sáng của ngọn hải
đăng, rồi biến mất. Đây cũng cho thấy bạn đã rời hơi thở tuyệt đẹp
sớm quá. Bạn phải đủ khả năng nuôi dưỡng sự chú tâm đến hơi thở
tuyệt đẹp một cách thoải mái trong thời gian thật dài, thật lâu, trước
khi tâm đủ sức duy trì sự chú ý rõ ràng đến định tướng, vốn tế nhị
bội phần hơn nữa. Vì vậy, bạn hãy huấn luyện tâm về hơi thở tuyệt
đẹp, huấn luyện kiên nhẫn và mẫn cán, rồi khi đến lúc hướng đến
định tướng, nó sẽ rạng chiếu, vững chắc, và dễ nuôi dưỡng lâu bền.
Lý do chính khiến cho định tướng còn lờ mờ là vì sự hài lòng vẫn
còn nông cạn. Bạn vẫn còn đang "muốn" một điều gì. Thông thường,
bạn muốn có một định tướng sáng tỏ, hay bạn muốn đắc Thiền-na
(Jhàna). Nên nhớ, và điều này rất quan trọng, Thiền-na là những
trạng thái của xả ly, những trạng thái bằng lòng thỏa ý vô cùng sâu
xa. Vậy, bạn hãy vất đi cái tâm khao khát, hãy phát triển sự thỏa ý
với hơi thở tuyệt đẹp, và rồi, định tướng và Thiền-na sẽ tự khắc xảy
đến.
Nói cách khác, lý do tại sao định tướng còn yếu ớt là vì "tác nhân" cứ
xen vào mãi, chẳng chịu ngừng. "Tác nhân" là kiểm soát viên, là tài
xế ở ngồi ghế sau, luôn xen vào các việc chẳng ăn nhập đến mình, và
làm cho mọi việc càng rối rắm thêm. Sự hành thiền là một tiến trình
tự nhiên tiến đến nghỉ ngơi, và nó đòi hỏi bạn phải hoàn toàn tránh
sang một bên. Sự hành thiền thâm sâu chỉ thực hiện được khi bạn
thực sự buông bỏ; và thực sự buông bỏ có nghĩa là đến mức mà trọn
cả tiến trình hành thiền trở nên hoàn toàn ngoài vòng xâm nhập của
"tác nhân".
Một phương tiện khéo léo để đạt được sự buông bỏ tuyệt đối đó, là
thành tâm đặt trọn lòng tin vào định tướng. Bạn hãy làm gián đoạn sự
tĩnh lặng lại trong một lát, và bằng một cách thật hết sức dịu dàng,
nói rỉ tai, như thể là nó đang ở trong tâm bạn, rằng bạn đem trọn lòng
tin đặt vào định tướng, khiến cho "tác nhân" phải từ bỏ tất cả sự kiểm
soát và biến mất. Tâm, được biểu hiện ở đây bằng cái định tướng
trước mắt bạn, sẽ đảm đương trọn cả tiến trình, trong khi bạn chỉ
quan sát mọi việc tuần tự xảy ra.
Bạn không cần phải làm gì ở đây, vì vẻ đẹp rực rỡ của định tướng dư
sức để duy trì sự chú tâm mà chẳng cần bạn giúp đỡ. Đến đây, nên
cẩn thận đừng khởi lên nhận định phê phán. Các câu hỏi như: "Cái gì
vậy?", "Đó có phải là Thiền-na chăng?", "Rồi ta phải làm gì nữa
đây?", v.v..., đều là những công cụ để "tác nhân" tìm cách xen vào
lần nữa. Chúng khuấy rối cả tiến trình. Bạn chỉ có thể nhận định, phê
phán, một khi cuộc hành trình đã chấm dứt. Một nhà khoa học giỏi
chỉ nhận định khi thí nghiệm đã xong, với các dữ kiện được nắm
vững. Vậy thì, giờ đây, bạn đừng nhận định, cũng đừng cố giải thích.
Bạn không cần phải chú ý đến đường nét của định tướng, "Nó tròn
hay bầu dục?", "Đường viền của nó rõ hay mờ?"... Những điều đó
chẳng cần thiết chi, mà chỉ đem đến nhiều sự bất đồng hỗn tạp, nhiều
nhị nguyên đối đãi "nội tại" với "ngoại tại", và nhiều sự phiền nhiễu
khác.
Hãy để cho tâm hướng về nơi mà nó muốn, thông thường là hướng
về trung tâm điểm của định tướng. Trung tâm điểm đó là nơi điểm
cao của vẻ mỹ lệ, nơi mà ánh sáng rạng rõ và tinh thuần nhất. Hãy đi
và tận hưởng chuyến nhàn du thích thú, trong khi sự chú ý được kéo
về trung tâm điểm và rơi đúng vào trong định tướng; hoặc trong khi
ánh sáng rạng rỡ tỏa khắp chung quanh, bao trùm trọn người bạn.
Thật ra, đó cùng là một kinh nghiệm cảm nhận từ các góc độ khác
nhau. Bạn hãy để tâm tràn ngập trong hỷ lạc. Hãy để cho giai đoạn
thứ bảy của con đường hành thiền này, Thiền-na thứ nhất (Sơ
Thiền), diễn ra.
Có hai trở ngại thông thường tại ngưỡng cửa đi vào Thiền-na: mừng
rơn và sợ hãi. Mừng rơn là trở nên quá khích động. Nếu vào lúc ấy,
tâm nghĩ, "Chà! Chà! Chính là nó đấy!", thế là Thiền-na sẽ khó xuất
hiện. Cái phản ứng "Chà! Chà!" đó cần phải được dẹp bỏ, để giúp
cho tâm được thụ động tuyệt đối. Hãy gát cái "Chà! Chà!" lại cho
đến khi nào bạn xuất ra khỏi Thiền-na, rồi thốt lên thì mới thật đúng
lúc. Nhưng trở ngại quan trọng hơn, có lẽ là sự sợ hãi. Sợ hãi khởi
lên ngay tại lúc nhận diện ra sức mạnh và hỷ lạc của Thiền-na, hoặc
ở sự nhận thức rằng, để đi vào trọn vẹn trong Thiền-na, cần phải bỏ
lại phía sau một cái gì đó – và cái đó chính là ... Bạn! "Tác nhân" tuy
đã im lặng trước khi nhập Thiền-na, nhưng nó vẫn còn đó. Bên trong
Thiền-na, "tác nhân" hoàn toàn biến mất. "Tri nhân" vẫn còn hoạt
động, bạn vẫn hoàn toàn hay biết, nhưng tất cả quyền kiểm soát, giờ
đây, vuột khỏi tầm tay rồi. Bạn chẳng thể khởi lên mỗi một tư tưởng
nào, nói chi là lấy một quyết định. Ý chí bị đông cứng lại, và điều
này dường như rất đáng sợ cho người mới bắt đầu. Từ trước đến nay,
trong trọn đời bạn, có bao giờ bạn thể nghiệm một tình trạng bị tước
hết mọi quyền kiểm soát, trong khi vẫn còn hoàn toàn tỉnh táo,
không? Sự sợ hãi đó chính là sự sợ hãi phải dâng nộp một điều thật
thiết yếu, thật riêng tư, đó là ý chí muốn tác động.
Sự sợ hãi này có thể khuất phục được bằng lòng tin vào lời dạy của
Đức Phật, cùng với sự hỷ lạc đầy quyến rủ mà thiền sinh xem như là
phần thưởng còn đang chờ đón. Đức Phật thường bảo, "Sự hỷ lạc của
Thiền-na, chẳng nên lo sợ, mà cần nên thuận theo, phát triển và thực
tập luôn." (Kinh Latukikopama - Ví dụ chim Cáy, kinh số 66, Trung
bộ kinh). Vậy, trước khi sự sợ hãi khởi lên, bạn hãy đặt trọn niềm tin
vào sự hỷ lạc đó và giữ vững niềm tín thành nơi lời giáo huấn của
Đức Phật và các vị Đại đệ tử của Ngài. Tin tưởng nơi Chánh Pháp,
và cứ để cho Thiền-na nồng nàn ôm lấy bạn để có được một kinh
nghiệm chẳng cần nỗ lực, phi thân thể, phi tự ngã, hỷ lạc sâu xa nhất
trong đời bạn. Hãy có đủ can đảm để vứt bỏ quyền kiểm soát trong
một chốc, và thể nghiệm được tất cả các điều đó cho riêng bạn.
Nếu thật sự đó là Thiền-na, thì nó kéo dài một thời gian lâu. Chẳng
đáng gọi là Thiền-na, nếu chỉ kéo dài chừng vài phút. Thông thường,
các cấp Thiền-na cao hơn sẽ kéo dài nhiều giờ. Một khi đã vào trong
Thiền-na rồi, thì chẳng còn sự chọn lựa gì nữa. Bạn sẽ xuất Thiền-na
khi nào tâm sẵn sàng đi ra khỏi, khi chất "nhiên liệu" về sự từ khước,
được gom góp để dành bấy lâu, nay được dùng cạn hết. Các trạng
thái tâm an định và sung mãn, do tự bản chất của chúng, sẽ kéo dài
một thời gian thật lâu. Một đặc điểm khác là Thiền-na chỉ khởi lên
khi nào định tướng được nhận ra thật rõ ràng, như đã mô tả ở trên.
Hơn nữa, bạn cũng nên biết, trong Thiền-na, không thể nào thể
nghiệm được chính thân thể (ví dụ như sự đau đớn thể chất), nghe
tiếng động bên ngoài hoặc phát lên một tư tưởng nào, dù là một tư
tưởng thiện đi nữa. Bấy giờ chỉ là một tri giác trong sáng duy nhất,
một thể nghiệm hỷ lạc phi nhị nguyên kéo dài, không thay đổi trong
một thời gian thật lâu. Đó không phải là một trạng thái xuất thần
(trance), nhưng là một tình trạng tỉnh thức cao độ. Tôi nói ra như thế
là để giúp bạn có thể tự mình biết được những gì bạn cho đó là
Thiền-na, có phải thực sự là Thiền-na không, hay chỉ là do tưởng
tượng.
*
Pháp hành thiền còn rất nhiều việc nữa, nhưng ở đây chỉ mô tả
phương pháp căn bản qua bảy giai đoạn, với đỉnh cao là Sơ Thiền.
Còn nhiều điều nữa có thể bàn đến, như về Năm Triền Cái
(Nìvarana) và làm cách nào để khuất phục chúng, về ý nghĩa của sự
giác niệm và cách ứng dụng, Bốn Niệm Xứ (Satipatthàna), Bốn Như
Ý Túc (Iddhipàda), Năm Căn (Indriya), và dĩ nhiên, về các tầng
Thiền-na cao hơn. Tất cả các điều đó đều liên quan đến sự thực tập
hành thiền này, nhưng xin dành lại cho một dịp khác.
Với những ai hiểu lầm rằng đây chỉ là Samatha (thiền Chỉ), không
liên hệ chi đến Vipassanà (thiền Quán), xin hãy biết cho rằng đây
không phải Samatha hay Vipassanà gì cả. Pháp hành này được gọi là
Bhàvanà (pháp Tu Thiền), phương pháp được Đức Phật chỉ dạy và
được thực hành trong truyền thống Sơn Lâm (Forest Tradition) ở
miền Đông Bắc Thái Lan, mà Thầy tôi, ngài Ajahn Chah là một
thành viên. Ngài Ajahn Chah thường dạy, Chỉ và Quán không thể
nào tách rời ra được, và cũng không thể nào phát triển cặp đôi đó mà
bỏ qua Chánh Kiến, Chánh Tư duy, Chánh Nghiệp và các chi kế tiếp
của Bát Chánh Đạo. Thật vậy, để có thể tiến bộ trong bảy giai đoạn
trên, thiền sinh cần phải thấu hiểu và thực hành giáo pháp của Đức
Phật, và giữ giới hạnh thật thanh tịnh. Sự minh triết rất cần cho mỗi
giai đoạn, và đó là sự minh triết về buông bỏ, xả ly. Thiền sinh tiến
triển càng xa trên bảy giai đoạn đó, thì trí tuệ minh triết càng thâm
viễn, và nếu bạn đã đạt tới Thiền-na, thì Thiền-na sẽ làm thay đổi
toàn thể sự hiểu biết của bạn. Cũng tựa hồ như, Minh triết múa quanh
Thiền-na và Thiền-na cũng múa quanh Minh triết. Đây là con đường
đi đến Niết-bàn, bởi vì Đức Phật có nói, "Người nào sống hỷ lạc
trong Thiền-na, có thể sẽ có bốn kết quả: Dự lưu, Nhất lai, Bất lai và
A-la-hán" (Kinh Thanh tịnh - Pàsadìka Sutta, kinh số 29, Trường bộ
kinh).
* * *
Đối chiếu thuật ngữ Anh-Việt
Ajahn (Acariya) A-xà-lê, Thầy, Sư
Attention Chú tâm, chú ý
Bhavana Tu thiền, luyện tâm
Beautiful breath Hơi thở mỹ lệ, hơi thở tuyệt đẹp
Deep meditation Mức thiền thâm sâu
Experience Kinh nghiệm, thể nghiệm
First Jhana Thiền-na thứ nhất, Sơ Thiền
Full sustained attention
on the breath
Hoàn toàn chú tâm vững bền vào hơi thở
Insight Minh triết, tuệ minh
Interview Phỏng vấn, trình pháp
Jhana Thiền-na
Meditation Hành thiền
Meditation retreat Khóa thiền ẩn cư, thiền tích cực
Nimitta Định tướng, quang tướng, thiền tướng
Perception Tri giác
Present moment
awareness
(mindfulness sustained
in the present moment)
Giác niệm về thời khắc hiện tại
Samatha Thiền chỉ, thiền an chỉ
Silent awareness of the
present moment
Giác niệm tĩnh lặng về thời khắc hiện tại
Stillness An trụ, an định, bất động
Sustained attention on
the breath
Chú tâm vững bền vào hơi thở
The Doer Tác nhân, người tạo tác
The Knower Tri nhân, người nhận biết
Vipassana Thiền quán, thiền minh sát
-ooOoo__