Khái niệm hộ pháp
Từ hộ pháp vừa có nghĩa là người ủng hộ Phật pháp, vừa có nghĩa là sự che chở bảo vệ chính pháp. Theo Từ điển Phật học Hán Việt, hộ pháp là ủng hộ chính pháp của Phật, Bồ-tát. Nhờ sự ủng hộ của các bậc có lực lượng lớn nên đạo không bị diệt. Từ Phạm thiên, Đế-thích, Bát bộ quỷ thần cho đến vua chúa và các đàn việt ở thế gian là người bảo hộ Phật pháp đều được gọi là Hộ pháp[1]. Theo huyền thoại Phật giáo, “Có những loài trời và loài quỷ thần, có duyên lành, được nghe pháp Phật và giác ngộ, quy y theo Phật pháp và nguyện bảo vệ chính pháp. Người ta gọi họ là những ông Thần Hộ pháp”[2]. Trong bài Mẫu hình người cư sĩ lý tưởng, tác giả Chúc Phú phân tích ba cách hộ pháp của người cư sĩ. Thứ nhất là hỗ trợ các phương tiện và điều kiện sống cho Tăng đoàn. Thứ hai là hỗ trợ về không gian tu. Thứ ba là giữ gìn những phương tiện có liên quan đến Tam bảo như kinh điển, chùa chiền, thanh danh đạo Phật, v.v…[3].
Hộ pháp còn gọi là hộ trì Chánh pháp hay hộ trì Phật pháp. Phân tích sâu hơn về hộ pháp, Hòa thượng Thích Trí Quảng cho rằng: “Phật và Thánh chúng mới có Phật pháp. Còn chúng phàm phu chỉ đóng vai hộ trì Phật pháp”. Từ đó, Hòa thượng giải thích: “Không làm mất lòng người, không làm não phiền người, gieo vào lòng người sự tôn kính là hộ trì Phật pháp. Tu hành mỗi ngày tâm hành giả được hoan hỷ, an lạc là đã hộ trì Chánh pháp. Niệm Phật, nhớ Phật, niệm kinh nhớ lời dạy của Phật là hộ trì Phật pháp. Hộ trì Phật pháp là hộ trì trong lòng mình và trong lòng mình có Phật thì Phật sẽ chỉ đạo cho lời nói, suy nghĩ và hành động của mình trở thành Chánh pháp”[4].
Như vậy, việc hộ pháp được biểu hiện qua sự việc cụ thể cho đến biểu hiện qua ý niệm trong tâm. Ở đây, bài viết sẽ dựa trên ba cách hộ pháp của người cư sĩ vừa nêu để phân tích và thảo luận.
Hộ pháp thời Đức Phật
Theo truyền thống Phật giáo nguyên thủy, Đức Phật và Tăng đoàn sống nhờ vào sự cúng dường của hàng cư sĩ. Đó là truyền thống của các Đức Phật do chính Đức Phật Thích Ca xác nhận với vua Tịnh Phạn nhằm giải thích sự than phiền của vua. Sự kiện này xảy ra trong chuyến thăm quê nhà đầu tiên của Đức Phật. Khi vua cha thấy Thái tử Tất Đạt Đa (Sidhartha) – lúc ấy đã thành Phật ôm bình bát đi khất thực trong thành, vua than phiền và cho rằng Phật đã làm ô danh dòng họ Thích Ca (Sakya). Theo Luật tạng, Đức Phật chỉ cho phép hàng xuất gia sở hữu ba y, một bình bát và một vài vật dùng cá nhân khác. Trong sinh hoạt hằng ngày, họ được phép dùng bốn thứ cần thiết là thức ăn, y áo, thuốc men và chỗ ở.
Với truyền thống sống bằng cách khất thực, hàng xuất gia không tự túc sản xuất ra vật chất để sử dụng trong sinh hoạt hằng ngày mà phải nhờ vào sự hiến cúng của hàng cư sĩ. Họ cần sự hộ pháp của hàng cư sĩ từ thức ăn, vật dụng cho đến chỗ ở. Hằng ngày họ khất thực để được thức ăn duy trì xác thân. Họ nhận y áo cúng dường từ hàng cư sĩ vừa đủ để che thân khi trời nắng mưa, nóng lạnh. Họ trú tại các tinh xá lớn như Trúc Lâm, Kỳ Hoàn…do vua và các cư sĩ giàu có hiến cúng để cùng tu học và hoằng pháp. Ngược lại, họ chế tác ra niềm an lạc hạnh phúc cho tự thân và hướng dẫn tha nhân cách thức để đạt được như họ. Quả vị giải thoát mà các vị xuất gia chứng đắc là món quà họ đáp lại công sức hộ pháp của hàng cư sĩ. Nhờ đó, họ có thể hướng dẫn hàng cư sĩ tu tập đúngChánh pháp và hiệu quả hơn.
Tóm lại, hàng xuất gia thời Phật không được phép chất chứa thức ăn hay của cải vật chất, không bận tâm việc xây cất chùa tháp hay tinh xá. Công việc của họ là tu tập để chứng quả Thánh và truyền bá Phật pháp.
Tuy nhiên, không phải tất cả những vị xuất gia thời Phật đều là những người thật tâm xuất gia. Với những người vì mục đích lánh đời xuất gia, việc tạo tác các hành vi phi pháp của họ có thể đoán trước được. Trước thực trạng này, chính hàng cư sĩ có những đóng góp trong việc ngăn ngừa và góp ý tưởng (duyên cớ) để Phật chế giới. Luật tạng ghi lại nhiều trường hợp xuất gia vì mục đích trốn nợ, trốn lính, trốn hình phạt, hay để được ăn no mặc đẹp…[5]. Vì mục đích phi pháp, các nhóm Tỳ-kheo này không giữ được oai nghi của người xuất gia nên bị ngoại đạo chê cười và hàng cư sĩ phàn nàn. Trong một số trường hợp, vua Bimbisara đã gặp Đức Thế Tôn và yêu cầu chọn lựa khi độ người xuất gia. Tương tự, nữ cư sĩ Visakha cũng đóng góp hòa giải bất đồng trong chúng Tỳ-kheo-ni hay thỉnh Phật chế một số giới cho hàng Ni chúng[6]. Đây thuộc về cách hộ pháp bảo vệ thanh danh Phật giáo.
Cư sĩ hộ pháp bằng cách giảng dạy hay phổ biến Phật pháp hiếm thấy đề cập trong kinh điển Phật giáo. Có lẽ thời ấy trách vụ cúng dường cho hàng xuất gia cần thiết hơn là hoằng pháp bởi trách vụ phổ biến Phật pháp đã có Đức Phật và Thánh chúng đảm trách.
Hộ pháp ở Việt Nam hiện nay
Sự hộ pháp ở Việt Nam có nhiều thay đổi so với thời Phật nhằm thích ứng với điều kiện môi trường mới. Hình thức Phật giáo truyền vào Việt Nam không còn là Phật giáo nguyên thủy thuần túy mà là Phật giáo Theraveda và Phật giáo phát triển, trong đó hình thức Phật giáo sau thịnh hành và phổ biến rộng hơn. Sử liệu Phật giáo cho thấy các thương nhân Phật tử đã mang hình thức Phật giáo tín ngưỡng thờ cúng Phật và Bồ-tát vào Việt Nam trong giai đoạn du nhập đầu tiên. Về sau, các thiền sư người Ấn và Hoa truyền Phật pháp vào Việt Nam và cũng nhờ hàng cư sĩ bao gồm nhiều tầng lớp chung tay góp sức xây dựng nên các ngôi chùa lớn nhỏ khắp đất nước – tạo không gian sinh hoạt, tu tập và truyền bá Chánh pháp cho tứ chúng. Nổi bật trong hàng cư sĩ đóng góp xây dựng chùa chiền với quy mô rộng lớn là tầng lớp lãnh đạo bao gồm các triều đại vua chúa và các quan. Điều đáng lưu ý là bắt đầu từ giai đoạn này về sau, hàng xuất gia đóng vai trò quan trọng trong việc kiến lập tự viện, cụ thể là các sư trụ trì.
Ngày nay, hầu hết nếu không muốn nói là tất cả chùa chiền đều do sư trụ trì đứng ra xây dựng dựa trên sự cúng dường của hàng cư sĩ. Theo pháp luật hiện hành, người cư sĩ không đủ pháp nhân để đứng ra xin phép xây dựng chùa trừ các ban hộ tự được Giáo hội và nhà nước công nhận. Tuy nhiên, rất hiếm ban hộ tự đủ khả năng vận động tài chánh để xây dựng hay trùng tu các ngôi chùa. Do vậy, hàng cư sĩ vẫn tiếp tục hộ pháp bằng cách hỗ trợ không gian tu nhưng thường là gián tiếp thay vì trực tiếp như thời Đức Phật.
Theo truyền thống Phật giáo Đại thừa, đời sống của hàng xuất gia không dựa trên pháp khất thực mà phải tự túc sinh hoạt dựa trên sự cúng dường của hàng cư sĩ. Chùa chiền bắt đầu phải tích trữ của cải vật chất để phục vụ đời sống Tăng Ni và nhiều chùa còn chia sẻ của ấy cho đồng bào còn khó khăn. Cư sĩ không phải cúng thức ăn hằng ngày mà thường hộ pháp qua việc cúng dường tài vật để chùa tự lo liệu theo nhu cầu sinh hoạt ở mỗi nơi. Nói chung, sự hộ pháp theo cách thức thứ nhất vẫn tiếp tục duy trì dù có sự thay đổi cho thích hợp.
Sự hộ pháp theo cách thứ ba có nhiều thay đổi quan trọng thích ứng với điều kiện và nhu cầu hiện đại. Người cư sĩ suốt nhiều năm qua đã đóng góp phiên dịch nhiều kinh điển, tham gia giảng dạy Phật pháp, nghiên cứu và xuất bản nhiều tài liệu về Phật giáo nhằm phổ biến lời dạy của Đức Phật đến mọi người, và đặc biệt là tham gia công tác hành chính của Giáo hội. Nhiều cư sĩ đã hy sinh công sức và cả thân mạng để cùng với Tăng Ni bảo vệ Phật giáo trong thời kỳ Phật giáo gặp khó khăn. Có thể kể đến những vị có công lớn trong cách hộ pháp này như cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền, cư sĩ Minh Chi, các thánh tử đạo…
Những thử thách và giải pháp tham khảo
Sự hộ pháp của hàng cư sĩ ngày nay có nhiều hình thức nên cũng gặp nhiều thử thách khác nhau. Thứ nhất, hộ pháp về đời sống sinh hoạt của Tăng Ni thường phụ thuộc vào mối quan hệ giữa chùa và cư sĩ hơn là nhu cầu thực tế của chùa ấy. Ở chùa nào sư trụ trì có năng lực và biết cách thu hút Phật tử thì chùa ấy sung túc hơn. Sự cúng dường theo cách này thường dựa trên xúc cảm. Thứ hai, hộ pháp thông qua sự cúng dường xây dựng chùa tháp cũng rơi vào tình trạng tương tự. Có nhiều chùa được xây dựng quy mô hoành tráng đến mức xa xỉ vì nhận được nhiều tịnh tài từ cư sĩ trong khi nhiều chùa trải qua nhiều năm xây dựng không thể hoàn thành. Tất nhiên, hạn chế này không phải lỗi của người cư sĩ mà phần lớn thuộc về người quản lý và sử dụng tịnh tài. Thứ ba, hộ pháp bằng cách truyền bá lời Phật dạy thông qua dịch kinh, giảng dạy, xuất bản sách… trên thực tế chưa tương xứng với tiềm năng của cư sĩ. Vai trò của cư sĩ Việt Nam trong lĩnh vực này còn mờ nhạt bởi phần lớn họ đóng góp một cách tự phát, tự nguyện, thiếu tổ chức bài bản, và thiếu “đất dụng võ”. Hạn chế này phần lớn là do tổ chức Giáo hội chưa có kế hoạch cụ thể để tận dụng nhân tài cư sĩ.
Có thể nói khó có giải pháp cụ thể nào để giải quyết vấn đề hạn chế trên. Đặc trưng của Phật giáo là không có giáo quyền cho nên mọi hình thức dùng quyền lực để điều hành đều thất bại. Ta biết rằng hình phạt cao nhất đối với hàng xuất gia là tẩn xuất (khai trừ) trong khi không có hình thức kỷ luật nào đối với cư sĩ. Đạo Phật cũng có đặc trưng nữa là dùng đức trị, tức nhờ công đức tu tập mà hóa độ được quần chúng, đưa họ về với con đường chánh đạo. Tăng Ni gương mẫu, Giáo hội trang nghiêm thì sẽ tìm ra giải pháp khả dĩ để khắc phục hạn chế. Nghĩa là, các chùa điều tiết sinh hoạt phù hợp với nhu cầu cần thiết để có thể đóng góp vào nguồn dự trữ của Giáo hội. Ngược lại, Giáo hội phải sử dụng nguồn dự trữ để đầu tư hợp lý và có hiệu quả thiết thực. Nếu thực hiện được vai trò này, sự hạn chế của cách thức hộ pháp thứ nhất và thứ hai phần lớn được khắc phục. Xem ra giải pháp này khó thành hiện thực ít nhất trong hiện tại.
Nhu cầu nghiên cứu Phật học thời nay rất phổ biến. Quần chúng không chỉ đến với đạo Phật để thực hành tín ngưỡng tâm linh mà còn nghiên cứu, học hỏi giáo pháp vi diệu của Đức Phật. Các phân khoa Phật học được mở ra tại nhiều trường đại học lớn trên thế giới, các hội thảo về Phật giáo có nhiều cư sĩ tham dự với nhiều bài tham luận có chất lượng cao. Nhiều tạp chí nghiên cứu Phật giáo do cư sĩ không phải Phật tử đảm trách. Trước nhu cầu tìm hiểu Phật học của đông đảo quần chúng, sự hộ pháp bằng cách phổ biến, giải thích Phật pháp đang gặp thử thách bởi thiếu nhân sự và thiếu điều kiện nghiên cứu. Do đó, tổ chức Giáo hội cần có một chính sách chiến lược để quy tụ những người có năng lực tham gia nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đời sống tu tập của đồng bào Phật tử nhằm tạo chương trình trợ duyên cho họ và cũng để bảo vệ đạo pháp. Xa hơn là nghiên cứu phương cách đưa đạo Phật đến các vùng xa xôi của đất nước.
Lời kết
Sự hộ pháp của hàng cư sĩ thời Đức Phật đơn giản trong khi hiện tại đa dạng và phức tạp. Ngày xưa, cư sĩ chỉ hộ pháp bằng cách cúng dường thức ăn hay không gian tu tập nhỏ nào đó thì ngày nay họ phải cúng dường nhiều thứ theo nhu cầu thực tế. Thời xưa hàng cư sĩ không phải nghĩ đến việc hoằng pháp vì uy đức của Đức Phật và Tăng đoàn quá lớn và nếu có thì họ chỉ làm việc giới thiệu tín chúng đến gặp Phật hay Thánh chúng. Thời nay việc hoằng pháp rất cần sự tham gia của cư sĩ thông qua sự giảng dạy, xuất bản hay giới thiệu Phật pháp và sự tu tập bản thân.
Riêng về hộ trì Phật pháp bằng chính sự tu tập của bản thân, còn nhiều điều chúng ta cần suy nghĩ. Sinh hoạt ở nhiều chùa vẫn chưa đẹp như tình trạng tranh giành hơn thua ngay trong chùa, nhiều tín đồ còn thiếu ý thức nên chia phe nhóm rồi gây buồn phiền nhau, nhiều cư sĩ còn thiếu oai nghi trong khi đi đứng nói năng trong thánh địa chùa chiền… Đây là những thử thách trong vấn đề hộ pháp.
Hội đồng Liên hợp quốc tôn vinh đạo Phật và công nhận ngày đản sanh của Đức Phật là ngày lễ quốc tế bởi sự đóng góp to lớn của Đức Phật và giáo pháp nhân bản của Ngài. Hộ pháp đúng nghĩa thì phải giữ gìn tinh thần cao đẹp của Chánh pháp. Nó biểu hiện qua hành vi của từng hành giả tu tập. Do đó, mỗi người con Phật nói chung và mỗi cư sĩ nói riêng nếu thể hiện được nét đẹp của Chánh pháp qua cách đi đứng trang nghiêm, lời ăn tiếng nói nhẹ nhàng dễ nghe, và suy nghĩ tích cực xây dựng thì đã đóng góp rất lớn trong sự hộ pháp.